Hoa Kỳ, quốc gia nằm ở phía Đông Thái Bình Dương - chứ không
phải Cộng Sản Trung Hoa - với tiềm lực quân sự chế ngự toàn thể đại dương này,
vẫn thường được coi là cường quốc Thái Bình Dương bởi lẽ Hạm Ðội Thứ 7 trực
thuộc Hạm Ðội Thái Bình Dương có tổng hành dinh đóng tại Yokosuka trên đảo Honsu
của Nhật Bản và có cả thảy 3 hàng không mẫu hạm, hằng nghìn máy bay cùng hằng
trăm chiến hạm cũng như tiềm thủy đĩnh đủ cỡ, đủ loại, đang là lực lượng hùng
mạnh vô địch trải rộng khắp miền, từ Guam tới Okinawa và từ Singapore cho tới
Sydney.
Nhưng vị thế đó rồi đây sẽ không còn nữa khi Cộng Sản Trung Hoa,
gọi cho gọn là Trung Cộng, đang ngày càng bành trướng thế lực trên biển (và có
thể là cả trên bộ nếu một mai Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Cộng chiếu
theo bản “Thỏa Thuận Thành Ðô” đầy bí ẩn được ký kết giữa hai Ðảng Cộng Sản
Trung Hoa và Việt Nam hồi năm 1990), đặc biệt là tại hai Quần Ðảo Hoàng Sa và
Trường Sa trên Biển Nam Hoa (South China Sea), nơi lực lượng hải quân Trung Cộng
đang đối đầu quyết liệt với lực lượng hải quân của hai quốc gia Ðông Nam Á nhỏ
bé hơn họ nhiều, là Cộng Sản Việt Nam, nước gọi Biển Nam Hoa theo cách riêng của
họ là Biển Ðông, và Phi Luật Tân, nước gọi vùng biển này là Biển Tây (West
Philippine Sea), căn cứ vào vị trí địa lý của vùng biển đó đối với đảo quốc
này.
*Thế yếu hiện nay của các nước Việt Nam, Phi Luật Tân, Mỹ, Ấn Ðộ và Nhật
Bản
Trong mấy năm trở lại đây, cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản và Ấn Ðộ đều ráo
riết ve vãn Cộng Sản Việt Nam, lộ liễu nhất là trong và sau cuộc khủng hoảng
bang giao giữa hai nước cộng sản “anh em” kia, do việc Trung Cộng bất thình lình
đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu bên trong hải phận (lãnh hải) Việt Nam trên
Biển Nam Hoa để dò tìm dầu khí, với ý đồ không giấu diếm là muốn đặt Cộng Sản
Việt Nam vào tình thế đã rồi là toàn bộ, hay ít ra cũng là hầu hết, Biển Nam Hoa
đã thuộc chủ quyền của Trung Cộng, nếu như Cộng Sản Việt Nam và thế giới không
có phản ứng gì.
Thật ra, những quốc gia tự do, dân chủ đó nỗ lực ve vãn - và
có khi còn tỏ ra chiều chuộng thái quá - quốc gia Cộng Sản tại Ðông Nam Á này
chẳng phải vì họ yêu thương gì lắm dân tộc Việt Nam hoặc cái Ðảng Cộng Sản Việt
Nam đang cai trị đất nước đáng thương đó mà chẳng qua là vì Cộng Sản Việt Nam,
nước có cảng nước sâu Cam Ranh tốt hơn cả Rio de Janeiro của Brazil, đang giữ
một vị thế chiến lược cực kỳ quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất, tại
phía Tây Thái Bình Dương, bởi vì Biển Nam Hoa ngoài khơi Việt Nam là thủy lộ
huyết mạch từ Thái Bình Dương thông qua Ấn Ðộ Dương của các nước có kỹ nghệ phát
triển và có nền kinh tế lớn trong vùng, như Nhật Bản, Nam Hàn, Ðài Loan, Ấn Ðộ
và Hoa Kỳ. Nếu Biển Nam Hoa lọt vào tay một cường quốc hùng mạnh và tham tàn như
Trung Cộng thì coi như không riêng gì Việt Nam và Phi Luật Tân mà tất cả các
nước nêu trên, luôn cả Thái Lan, Mã Lai Á, Singapore, Indonesia, Brunei và Úc
Ðại Lợi, cũng khốn đốn lây.
Bề ngoài, có vẻ như cuộc tranh chấp chủ quyền
trên Biển Nam Hoa vẫn đang diễn tiến chứ chưa ngã ngũ, nghĩa là cả Trung Cộng
lẫn Cộng Sản Việt Nam và Phi Luật Tân, cùng với các quốc gia ở phía Nam vùng
biển này, là Mã Lai Á, Indonesia và Brunei, không ai thật sự nắm quyền kiểm soát
hết Biển Nam Hoa. Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Cộng đang làm chủ vùng biển đó,
cho dù Hoa Kỳ và thế giới, trong đó có Ấn Ðộ và Nhật Bản, có muốn hay không, chỉ
vì một lẽ đơn giản là, trong thế giới ngày nay, khi Liên Hiệp Quốc chỉ là một tổ
chức bù nhìn của các cường quốc, nguyên tắc mạnh được, yếu thua theo tiến trình
đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên trong Thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin
(Evolutionism/Darwinism) mới là yếu tố quyết định sự sống còn của một giống
người hay của cả nhân loại - chứ không riêng gì loài động vật - đặc biệt là các
nước nhược tiểu như Cộng Sản Việt Nam trước nanh vuốt của các quốc gia hùng mạnh
và tham tàn như Trung Cộng. Vả lại, Cộng Sản Việt Nam, vì bị Trung Cộng kèm kẹp
trong vòng ảnh hưởng của họ, chưa hề có được một cường quốc quân sự nào cam kết
bảo vệ bằng một hiệp ước phòng thủ chung, như trường hợp Nhật Bản và Phi Luật
Tân là hai quốc gia cũng đang đối đầu với Trung Cộng trong vấn đề chủ quyền biển
đảo nhưng lại đang được Hoa Kỳ cam kết bảo vệ.
Qua bao cuộc thử thách trên
thế giới từ cuối thế kỷ trước cho tới nay, đặc biệt là trong các biến cố tại
Georgia, Iran, Syria và Ukraine (Crimea), Hoa Kỳ, siêu cường duy nhất của thế
giới, viện cớ tiền bạc và tài nguyên đang cạn kiệt dần, đã chẳng dại gì mà hy
sinh quyền lợi của mình để giúp đỡ kẻ cô thế chống lại cường quyền, mong tiếp
tục giữ vững biệt danh “tay sen- đầm quốc tế” do phe Cộng Sản gán ghép cho
Washington từ thời Chiến Tranh Lạnh đến nay.
Vả lại, Trung Cộng từng tuyên bố
công khai và thẳng thừng rằng họ sẽ hành động một mình (vì họ quá mạnh khiến cả
siêu cường Hoa Kỳ cũng chùn bước) chứ không chấp hành bất cứ phán quyết nào, dù
có lợi hay có hại cho họ, của các tòa án quốc tế trong vấn đề tranh chấp tại
Biển Nam Hoa, trong đó có Tòa Án Luật Biển Quốc Tế (International Tribunal for
the Law of the Sea) và Tòa Án Trọng Tài Thường Trực (Permanent Court of
Arbitration), đừng nói chi tới Bộ Quy Tắc Ứng Xử tại Biển Ðông (Declaration on
the Conduct of Parties, DOC/South China Sea Code of Conduct) từng được các nước
trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Ðông Nam Á (ASEAN) và Cộng Sản Trung Hoa thỏa
thuận.
Vì Hải Quân Trung Cộng hiện đang là lực lực mạnh nhất trên Biển Nam
Hoa ngày nay, cho nên họ cứ tự tiện ra vào nơi đây như chỗ không người, muốn đưa
giàn khoan dầu tới đâu thì cứ tới, muốn nới rộng đảo nào hay bãi đá nào tại
Hoàng Sa và Trường Sa thì cứ làm, và muốn vẽ bản đồ lãnh thổ của họ bao trùm tới
đâu trên Biển Nam Hoa thì cũng cứ tùy ý muốn của họ, như trường hợp cái bản đồ
gồm 9 đoạn đứt khúc (nine - dotted line) của vùng biển này do họ công bố, mà
Cộng Sản Việt Nam ưa gọi một cách nôm na là “Ðường Lưỡi Bò” sau khi Hà Nội đã
thất bại trong việc ngăn chặn sức liếm láp cực kỳ khó chịu của cái lưỡi bò đó.
(1)
Hoa Kỳ, và cả Ấn Ðộ cũng như Nhật Bản, các cường quốc khác của thế giới
có quyền lợi hàng hải trên Biển Nam Hoa, rất bực tức và lo ngại, nhưng chẳng làm
gì được Trung Cộng trong lúc này, và có thể là cả trong tương lai dài lâu
nữa.
*Nguyên do khiến các cường quốc Hoa Kỳ, Ấn Ðộ và Nhật Bản đành bất lực
nhìn Trung Cộng chiếm hết Biển Nam Hoa
Các lý do quân sự, chính trị và
kinh tế đã đưa đẩy 2 cường quốc Hoa Kỳ và Nhật Bản ở Thái Bình Dương và cường
quốc Ấn Ðộ ở Ấn Ðộ Dương bó tay nhìn Cộng Sản Trung Hoa nuốt trọn Biển Nam Hoa,
chận đường các thương thuyền và tàu chiến Hoa Kỳ và Nhật Bản đi từ Thái Bình
Dương qua Ấn Ðộ Dương và ngược lại, buộc Ấn Ðộ phải điều chỉnh hoặc hủy bỏ chính
sách “Hướng Ðông” (“Look East”) có từ hồi 1991 qua bốn đời Thủ Tướng: P.V.
Narasimha Rao, Atal Bihari Vajpayee, Manmohan Singh, và Narendra Modi.
Không
hiểu Cộng Sản Việt Nam nghĩ sao chứ Hoa Kỳ khá lo buồn khi nhìn đảo Phú Lâm
(Woody Island), đảo lớn nhất trong Quần Ðảo Hoàng Sa từng bị quân Trung Cộng
đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa hồi Tháng Giêng năm 1974, trở thành một căn cứ
quân sự quy mô, với một phi trường có khả năng tiếp nhận các chiến đấu cơ phản
lực và một quân cảng hoàn chỉnh, nơi trú đóng của 4,000 hải quân và thủy quân
lục chiến Trung Cộng. Người Mỹ biết rằng đây chính là một “hàng không mẫu hạm
không thể đánh chìm” của hải quân Trung Cộng một khi chiến tranh xảy ra tại Ðông
Nam Á giữa Trung Cộng và các lực lượng muốn duy trì tự do hàng hải trên Biển Nam
Hoa.
Ðến Tháng Giêng năm 2015, Hoa Kỳ lại lo lắng nhìn Bãi Ðá Chữ Thập (Fiery
Cross Reef) ở quần đảo Trường Sa, mà Trung Cộng từng chiếm cứ khỏi tay Cộng Sản
Việt Nam hồi năm 1988, nay đã được Trung Cộng biến thành một căn cứ quân sự.
Trước đó, hình ảnh từ vệ tinh do thám Mỹ chụp được cho thấy Trung Cộng đã ra sức
hút cát đại dương và tô bồi thêm cho đảo Gạc Ma (Johnson South Reef), cũng từng
bị Trung Cộng cướp khỏi tay Cộng Sản Việt Nam trước đây để biến thành đảo riêng
của họ, rồi nối dài thêm phi đạo của một phi trường mà họ mới dựng lên nơi đây
thành một sân bay quân sự có thể dùng cho các chiến đấu cơ phản lực. Nếu Hoa Kỳ
không để cho Trung Cộng cưỡng chiếm Quần Ðảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa hồi
năm 1974 trong thế kỷ trước thì Trung Cộng đã không có một đầu cầu thiết yếu để
xua quân đánh chiếm luôn nhiều đảo và bãi đá khác trên quần đảo Trường Sa ở phía
Nam của Hoàng Sa. Về lỗi lầm tày trời này thì cặp bài trùng Richard Nixon và
Henry Kissinger, tổng thống và ngoại trưởng Mỹ hồi thập niên 1970, trước hơn ai
hết, phải hứng chịu mọi trách nhiệm trước lịch sử. (2)
Nhật Bản cũng lo buồn
không kém Hoa Kỳ khi thấy Trung Cộng bành trướng tiềm năng quân sự tại các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nơi Hải Quân Nhật Bản từng chiếm đóng và trấn giữ
suốt thời gian Nhật Bản hất cẳng Pháp để nắm quyền cai trị ba nước Việt-Miên-Lào
trên bán đảo Ðông Dương thuộc Pháp. Với kinh nghiệm tại Biển Hoa Ðông (East
China Sea) ở phía Ðông Trung Cộng và phía Tây Nhật Bản, nơi Trung Cộng từng
thiết lập một Vùng Cấm Bay (No-Fly Zone/Air Defense Identification Zone), không
cho phép phi cơ dân sự và quân sự của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn và các nước khác
bay qua, Nhật Bản biết rằng, rồi đây, tàu thuyền và phi cơ của họ cũng sẽ không
được phép đi ngang qua Biển Nam Hoa một khi Trung Cộng quyết tâm áp đặt một Vùng
Cấm Bay tương tự giữa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nơi họ đang có các căn
cứ quân sự, mà bản doanh có thể được đặt trên chiếc “hàng không mẫu hạm không
thể đánh chìm,” tức là trên đảo Phú Lâm trong Quần Ðảo Hoàng Sa hoặc có thể là
trên một số hòn đảo và bãi đá khác tại Quần Ðảo Trưởng Sa nữa. (3)
Phần mình,
Ấn Ðộ đang ưu tư, lo lắng đứng nhìn thời thế thay đổi tại Biển Nam Hoa khi Trung
Cộng dần dà chiếm đóng hết đảo này tới đảo khác trên hai Quần Ðảo Hoàng Sa và
Trường Sa mà không có một sức mạnh nào cản nổi, bởi vì cả Cộng Sản Việt Nam và
Phi Luật Tân đều không đủ sức mạnh - hoặc thiếu quyết tâm, như trong trường hợp
rất đáng nghi ngờ của Cộng Sản Việt Nam - để kiềm chế hoặc ngăn chặn sức bành
trướng quân sự của Trung Cộng trong vùng, trong khi Hoa Kỳ, cho tới nay, chỉ nói
mà không làm, nên Trung Cộng chẳng hề nao núng.
Là một cường quốc lớn tại Á
Châu, Ấn Ðộ cảm thấy cần thiết phải có tự do lưu thông hàng hải tại Biển Nam Hoa
để tàu thuyền và phi cơ của họ có thể an toàn đi lại từ Ấn Ðộ Dương sang Thái
Bình Dương và ngược lại thông qua eo biển Malacca, nằm giữa bán đảo Mã Lai Á và
đảo Sumatra của Indonesia. Ngay cả việc dò tìm dầu khí của các công ty dầu Ấn Ðộ
tại thềm lục địa của Việt Nam cũng sẽ không thể thực hiện được một khi Trung
Cộng đã chiếm trọn Biển Nam Hoa và lên tiếng đòi chủ quyền trên tất cả các giếng
dầu phong phú trong vùng biển này.
Nguồn tin thông tấn xã AFP hôm 27 Tháng
Giêng năm 2015 cho hay Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama và Thủ Tướng Ấn Ðộ
Narendra Modi đã lên tiếng kêu gọi các quốc gia trên thế giới bảo đảm “an ninh
hàng hải và hàng không trong khu vực, đặc biệt tại Biển Ðông (tức Biển Nam Hoa)”
qua một thông cáo chung nhân dịp nhà lãnh đạo Mỹ kết thúc chuyến viếng thăm Ấn
Ðộ. Trước đó, vào ngày 25 Tháng Giêng, cùng lên tiếng trong một bản tuyên bố
nhan đề “Tầm Nhìn Chiến Lược Chung cho Vùng Á-Châu-Thái Bình Dương và Ấn Ðộ
Dương” (“Joint Strategic Vision for the Asia-Pacific and Indian Ocean”), Tổng
Thống Obama đã cùng với Thủ Tướng Modi xác định rằng hai quốc gia Mỹ và Ấn rất
quan ngại về “những căng thẳng chung quanh các cuộc tranh chấp lãnh hải” tại
Biển Nam Hoa. Ngày 28 Tháng Giêng năm 2015, các ngoại trưởng thuộc Hiệp Hội Các
Quốc Gia Ðông Nam Á (ASEAN) nhóm họp tại Mã Lai Á đã cùng nhau bày tỏ sự lo ngại
về chuyện Trung Cộng liên tục đòi chủ quyền tại nhiều khu vực trong Biển Nam
Hoa, đặt các quốc Ðông Nam Á vào thế phải đối mặt với tham vọng bá quyền nước
lớn của Trung Cộng trong khi không có nước nào trong vùng đủ sức đối đầu về quân
sự với nước láng giềng phương Bắc khổng lồ đó. (4)
*Vì đâu nên nỗi?
Sự thể
này có nhiều nguyên do, trong đó có các nguyên do sau:
1. Hoa Kỳ bỏ rơi Việt
Nam Cộng Hòa, để mất quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Cộng
Việc Hoa Kỳ bỏ
cuộc nửa chừng, để cho Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt (1975) và
kèm theo đó là việc Hoa Kỳ, chỉ một năm trước đó, đã làm ngơ không can thiệp để
cho Trung Cộng chiến mất quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa (trong trận Hải
Chiến Hoàng Sa giữa Hải Quân Trung Cộng và Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa vào ngày
19 Tháng Giêng năm 1974), là sai lầm chiến lược lớn lao nhất của Hoa Kỳ trong
thế kỷ trước, (5) mặc dù Hoa Kỳ vẫn được tiếng là kẻ đã chiến thắng cuộc Chiến
Tranh Lạnh (1945-1991) trong tư cách là cường quốc lãnh đạo Thế Giới Tự Do và
nghiễm nhiên trở thành siêu cường Số 1 của thế giới sau sự sụp đổ của Cộng Sản
Ðông Âu và sự tan rã của Liên Xô, tức Liên Bang Xô Viết. Có điều, Trung Cộng
cùng 2 chư hầu của họ tại Á Châu, là Việt Nam và Bắc Hàn, cũng như Cộng Sản Cuba
thân Liên Xô ở Tây Bán Cầu, đã không sụp đổ theo đúng các đánh giá khôn ngoan
nhất mà loài người có thể đưa ra trong thế kỷ trước.
Có thể lúc bỏ rơi Việt
Nam Cộng Hòa hồi năm 1973-1975, các chính trị gia Mỹ, nhất là Quốc Hội Mỹ (là kẻ
nắm hầu bao trong mọi cuộc chiến), chỉ có mục đích thiển cận là nhằm tiết kiệm
mỗi năm chừng nửa triệu Mỹ kim tiền viện trợ - Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của
Việt Nam Cộng Hòa cũng chỉ cần có thế đặng giữ vững Miền Nam Việt Nam - để dành
số tiền đó lo cho phúc lợi của dân chúng Mỹ trong nước. Ðâu có ai biết rằng, vì
để mất Việt Nam Cộng Hòa trong thế kỷ trước, qua thế kỷ này Hoa Kỳ đã phải chi
ra mỗi năm hàng chục tỉ Mỹ kim để chống đỡ những ngón đòn của Trung Cộng trên
khắp các mặt trận toàn cầu, đặc biệt là tại Biển Nam Hoa, thủy lộ sinh tử của Mỹ
và các nước đồng minh từ Thái Bình Dương qua Ấn Ðộ Dương.
Sự sụp đổ của Việt
Nam Cộng Hòa, chiếc tiền đồn chống Cộng của Thế Giới Tự Do, đã trở thành sự sụp
đổ của chiếc tiền đồn của Hoa Kỳ và các nước đồng minh Á Châu của Mỹ, như Nhật
Bản, Ấn Ðộ, Nam Hàn và Phi Luật Tân, trước tham vọng bá quyền của Trung Cộng tại
Á Châu. Một Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại, với hải, lục không quân tinh nhuệ
và với một đội quân được các chuyên gia quân sự đánh giá là hùng mạnh vào hàng
thứ 7 trên thế giới trước năm 1975 mà còn được bảo vệ bằng một hiệp ước an ninh
chung với Hoa Kỳ, sẽ làm Trung Cộng nản lòng trong bất cứ tham vọng bá quyền nào
của họ, ít nhất là tại Ðông Nam Á và Biển Nam Hoa, đừng nói gì tới chuyện thách
thức vị thế bá chủ của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương.
Cần phải nói thêm rằng,
ngoại trừ Israel - với cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái giàu mạnh và rất có thế
lực tại Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng Hòa là đồng minh tốt nhất và đáng tin cậy nhất
của Hoa Kỳ trong suốt dòng lịch sử nếu đem so với các đồng minh khác trên toàn
thế giới, như Afghanistan và Iraq chẳng hạn, là những kẻ sẵn sàng xả súng bắn
vào người bạn đồng minh Hoa Kỳ cho dù họ chưa hề bị bỏ bỏ rơi ngang xương như
trường hợp của Miền Nam Việt Nam cách nay 4 thập niên.
Với những bộ óc khá ưu
việt - cỡ bộ óc của các Giáo Sư Bửu Hội và Nguyễn Xuân Vinh thuộc thế hệ trước
cũng như của nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, mẹ đẻ loại bom ép nhiệt
thermobaric, và Tiến Sĩ Nguyễn Ðịnh, cha đẻ loại vũ khí bắn tia Free Electron
Laser, của Hoa Kỳ thuộc thế hệ hiện nay - và với tiềm năng dầu khí dồi dào tại
thềm lục địa Miền Nam Việt Nam, thế giới không thể loại bỏ khả năng Việt Nam
Cộng Hòa trở thành một cường quốc nguyên tử (vì lẽ sinh tồn tự nhiên của một
nước nhỏ bên cạnh một nước láng giềng to lớn và hung ác), cho dù cường quốc này
có thể cũng sẽ phải ẩn thân trong vòng bí mật như Israel. Ðó thật sự là cơn ác
mộng của Trung Cộng, kẻ chưa hề biết sợ mà từ bỏ chủ trương bá quyền Ðại Hán. Và
dĩ nhiên, hồi thế kỷ trước, một khi Trung Cộng thấy Hoa Kỳ quyết tấm giữ vững
Miền Nam Tự Do để bảo vệ sườn phía Tây của Thái Bình Dương thì họ không bao giờ
dám đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa như họ đã làm hồi năm 1974, chỉ 1 năm trước
ngày Sái Gòn sụp đổ vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Còn chuyện đảo Gạc Ma và Bãi Ðá
Chữ Thập - do Cộng Sản Việt Nam quản lý sau khi Việt Nam Cộng Hòa cáo chung - bị
Trung Cộng đánh chiếm hồi năm 1988 thì chuyện đó sẽ không làm sao xảy ra được
nếu Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
2. Hoa Kỳ giúp Trung
Cộng phát triển kinh tế mong trục lợi từ một thị trường béo bở
Một lỗi
lầm chiến lược trầm trọng vào bậc nhất khác của Hoa Kỳ trong thế kỷ trước di hại
tới thế kỷ sau là Hoa Kỳ đã giúp Trung Cộng phát triển kinh tế những mong trục
lợi từ một thị trường béo bở như thị trường đông cả tỉ người trên lục địa Trung
Hoa, thay vì giúp Nga chấn hưng kinh tế sau khi Liên Xô tan rã.
Sự tồn tại
dai dẳng và không thể nào đảo ngược lại được của chế độ độc tài Cộng Sản tại
Trung Hoa - qua sự thất bại thảm thương và cay đắng của các phong trào đòi tự
do, dân chủ tại Thiên An Môn (1989) và Hồng Kông (2014) - cho thấy Hoa Kỳ, với
chính sách “Trợ Tàu, diệt Nga” thời Chiến Tranh Lạnh, đã tự ý tạo ra cho chính
mình một kẻ thù mới hùng mạnh và nham hiểm bội phần so với kẻ thù cũ Liên Xô.
Giờ đây, Trung Cộng đã trở thành đối thủ sinh tử của Hoa Kỳ, kẻ đang “tranh bá,
đồ vương” với Hoa Kỳ trên khắp các mặt trận có quy mô thế giới.
Rõ ràng là
nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Hoa Kỳ, thông qua việc chuyển nhượng khoa học, kỹ
thuật không chút e dè của các công ty Mỹ lúc nào cũng tối mặt trước lợi nhuận
thu vào bất kể quốc gia hưng vong, nền kinh tế Trung Cộng, chẳng bao lâu nữa sẽ
(thật sự) vượt qua Hoa Kỳ để tiến lên vị thế hàng đầu thế giới vẫn do Hoa Kỳ nắm
giữ từ sau Thế Chiến 2 đến nay. Có thể nói rằng, khi giúp Trung Cộng mở mang
kinh tế (kéo theo kỹ thuật tân tiến), Hoa Kỳ đã vô tình giúp Trung Cộng khả năng
mua sắm được hàng không mẫu hạm Liêu Ninh cùng các tiềm thủy đĩnh nguyên tử và
chế tạo được các chiến đấu cơ tàng hình thế hệ thứ 5 cỡ Chengdu J-20 and
Shenyang J-31, chẳng thua thua kém gì các siêu máy bay chiến đấu F-22 Raptors và
F-35 Joint Strike Fighters Lightning II của Hoa Kỳ. (6)
Hồi Tháng Giêng năm
2015, trong một bài viết trên tạp chí The National Interest nhan đề “The Foreign
Policy Essay: Why China Will Become a Global Military Power,” tức “Luận Về Chính
Sách Ngoại Giao: Vì Sao Trung Cộng Sẽ Trở Thành Cường Quốc Quân Sự Của Thế
Giới,” Oriana Skylar Mastro, giáo sư môn nghiên cứu an ninh tại trường Edmund A.
Walsh School of Foreign Service thuộc Ðại Học Georgetown University, cho rằng
sớm muộn gì rồi quốc tế cũng phải chấp nhận sự thể Trung Cộng là một cường quốc
quân sự của thế giới.
Nguồn tin Tân Hoa Xã hồi cuối Tháng Mười Một năm 2014
từng cho hay “Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định thời đại Mỹ là siêu
cường duy nhất thế giới sắp kết thúc, Bắc Kinh quyết tâm cạnh tranh sánh tầm ảnh
hưởng với Washington tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.” Ðiều này cho thấy việc
Trung Cộng lăm le thôn tính nhược tiểu Việt Nam chỉ nằm trong mục tiêu ban đầu
của họ mà thôi, trong khi mục tiêu tối hậu của quân Ðại Hán là làm sao có thể
thôn tính luôn cả siêu cường Hoa Kỳ.
Theo lời tiên đoán của đại văn hào Nga
Aleksandr Solzhenitsyn (1918-2008), tác giả The Gulag Archipelago, tức quần đảo
Gulag, từng sống lưu vong tại Mỹ năm 1974 nhưng sau đó chán ngán xã hội Mỹ chỉ
biết chăm chú hưởng thụ vật chất mà xao lãng mặt tinh thần nên đã quay trở lại
Nga năm 1994, Hoa Kỳ sẽ sụp đổ từ bên trong chứ không cần phải bị ai đánh từ bên
ngoài, bởi vỉ đây là một siêu cường đầy những lỗ hổng, với cả hai đảng chính trị
lớn chỉ biết lo cho quyền lợi của đảng mình (chẳng khác gì Cộng Sản, nhưng vẫn
còn khá hơn), với “lục phủ, ngũ tạng” đều rệu rã, và với lòng hận thù chủng tộc
sâu sắc tới độ nền pháp trị dữ dằn kiểu Mỹ vẫn không kiềm chế nổi.
Trung Cộng
có thể sẽ không đối đầu với Hoa Kỳ qua một cuộc chiến tranh nguyên tử theo kiểu
Bắc Hàn từng hăm dọa Mỹ, nhưng rõ ràng là họ đang dùng ngón đòn vật chất, mà
tiền bạc là chính, để “mua đứt” các cơ sở kinh tế của Mỹ và gây ảnh hưởng lên
các nhà lãnh đạo siêu cường này bằng cách tài trợ các chuyến đi du lịch đầy thú
vui và lắm khoái lạc để sau này bắt bí, buộc “người tiêu thụ” các thú vui đó
phải điều chỉnh chính sách quốc gia sao cho có lợi cho Trung Cộng. Từ cả chục
năm nay, Trung Cộng đã thực hiện không biết bao nhiêu là cuộc tấn công trên mạng
(cyber attacks) trong khuôn khổ cuộc chiến tranh điện toán (cyberwarfare) vào
các cơ sở kinh tế, kỹ nghệ và quân sự của Mỹ nhằm đánh cắp khoa học, kỹ thuật
cùng các thông tin thương mại, đồng thời sử dụng các chiêu thức tuy cổ điển
nhưng hữu hiệu, trong đó có cả khổ nhục kế và mỹ nhân kế, với mục đích làm suy
yếu giới lãnh đạo Mỹ lúc nào cũng ham vui và cần tiền để vận động bầu cử, song
song với việc ráo riết cạnh tranh nhằm triệt hạ ảnh hường của Hoa Kỳ trên khắp
thế giới, rõ rệt nhất là tại các nước Phi Châu và Nam Mỹ.
Cần biết rằng bản
chất của người Mỹ là thực tiễn và ham thich tiền bạc nên họ rất dễ sa vào các
bẫy sập của Trung Cộng. Cũng nên biết rằng, từ năm 1949, lúc cộng sản chiếm
quyền tại Hoa Lục, cho đến nay, chính sách ngoại giao Ðại Hán của Cộng Sản Trung
Hoa rất nhất quán và hầu như không hề thay đổi, dù là dưới thời Mao Trạch Ðông
hay Ðặng Tiểu Bình hay Hồ Cẩm Ðào trước kia hoặc Tập Cận Bình ngày nay. Trong
khi đó, cũng trong khoảng thời gian kể trên, chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã
thiếu tình liên tục và có khi còn mâu thuẫn nhau trầm trọng, dưới đời 12 vị tổng
thống, là Harry Truman, Dwight Eisenhower, John Kennedy, Lyndon Johnson, Richard
Nixon, Gerald Ford, Jimmy Carter, Ronald Reagan, George W.H. Bush, Bill Clinton,
George W. Bush, và Barck Obama.
3. Hoa Kỳ quá tự tin vào sức thu hút của chủ
nghĩa tư bản và nền tự do, dân chủ
Một lỗi lầm lớn lao nữa của Hoa Kỳ là
sự thể Chú Sam quá tự tin vào sức thu hút của chủ nghĩa tư bản và nền tự do, dân
chủ của thế giới bên ngoài các xã hội độc tài, đảng trị tại Cộng Sản Trung Hoa,
Cộng Sản Việt Nam, Cộng Sản Bắc Hàn và Cộng Sản Cuba. Khi giới thiệu chủ nghĩa
tư bản vào Trung Cộng và Việt Nam, Hoa Kỳ cứ làm như là chủ nghĩa tư bản hay ho
tới độ sẽ cảm hóa được dân chúng tại đây và làm say mê Bộ Chính Trị của các đảng
Cộng Sản đang cai trị tại Bắc Kinh và Hà Nội tới mức họ sẽ bỏ phăng đi đường lối
cộng sản mà chạy theo chế độ tự do, dân chủ do Hoa Kỳ bày vẽ. Sự thật thì cả hai
đảng Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam đều tương kế, tựu kế, cứ việc ngửa tay lấy
tiền của từ “bọn tư bản” để rồi nỗ lực nuôi nấng và củng cố đảng cộng sản của
mình cho ngày càng thêm bền vững.
Một ví dụ sống động là tấm gương do cựu đại
sứ Mỹ tại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Michael W. Michalak (2007-2011) để
lại. Ông Michalak rất hãnh diện về nhiệm kỳ của ông ở Việt Nam, bởi lẽ chính
trong thời gian này mà số du học sinh Việt Nam sang Mỹ du học đạt tới một đỉnh
cao mới, với số lượng du học sinh Việt Nam tại Mỹ vào cuối nhiệm kỳ của ông tăng
gấp đôi so với lúc ông vừa mới nhậm chức cách đó 4 năm. Cũng như bao chiến lược
gia tài ba trên đất Mỹ, vị đại sứ cứ tin rằng hễ giáo dục được càng nhiều con em
các lãnh tụ cộng sản Việt Nam bao nhiêu theo lối Mỹ thì triển vọng các nhà lãnh
đạo tương lai của Việt Nam từ bỏ chế độ độc tài, đảng trị hiện nay để chuyển
sang chế độ tự do, dân chủ kiểu Mỹ càng tươi sáng hơn bấy nhiêu. Sự thật thì kết
quả đã trái ngược hoàn toàn, bởi vì con cháu các lãnh tụ cộng sản được gởi đi du
học tại Mỹ, khi nối ngôi cha ông của họ, đã không đưa đất nước đi theo chế độ tự
do, dân chủ kiểu Mỹ - để chỉ có thể cai trị tối đa là 8 hay 10 năm giữa những
lời phê phán và chỉ trích gay gắt trong một xã hội có tự do ngôn luận - mà họ đã
ra sức trói buộc Việt Nam trong chế độ cộng sản độc tài để họ được quyền cai trị
suốt đời mà không ai dám hé môi phản đối, cho dù đất nước đang có nguy cơ mất
vào tay Trung Cộng nếu Việt Nam không chịu thay đổi thể chế chính trị.
(7)
Tương tự như thế, đã có hằng nghìn trí thức và chuyên gia Trung Cộng, một
số không nhỏ là con cháu các đảng viên gạo cội trong Ðảng Cộng Sản Trung Quốc,
từng du học Hoa Kỳ từ cuối thập niên 1970 tới nay, nhưng chưa hề có ai, khi leo
lên tới vị trí lãnh đạo trong guồng máy cai trị của Bắc Kinh, nghĩ tới chuyện từ
bỏ chế độ độc tài, độc đảng do phe cộng sản nắm giữ mà đi theo con đường đa
nguyên, đa đảng để tạo cơ hội cho các đảng phái khác thay họ mà lên cầm quyền.
(8)
*Thay lời kết
Trong những ngày tháng này, những người Quốc Gia của
Việt Nam Cộng Hòa cũ còn ở trong nước hoặc đang ở hải ngoại sắp sửa tưởng niệm
40 năm ngày mất nước, tức tưởng niệm 40 năm biến cố Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30
Tháng Tư năm 1975, một biến cố mà mới đầu ai cũng tưởng như chỉ là nỗi bất hạnh
riêng của 20 triệu đồng bào Miền Nam Việt Nam nhưng không ngờ lại là nỗi đau
chung của cả một dân tộc gồm 90 triệu người đang phải sống dưới một chế độ chính
trị bất công, bạo tàn và tồi tệ chưa từng thấy mà đành bất lực, không có cách
nào dứt bỏ đi được, cứ y như là một thứ nghiệp báo phải mang vào thân mãi tới
khi nào ông Trời ngó lại và cho thoát đi thì mới dứt được kiếp lầm than, hay nói
như Nguyễn Du: “Ðã mang lấy nghiệp vào thân/Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời
xa...”
Sau bao nhiêu tháng, năm sống cuộc đời lưu vong trên “đất khách” mà
nay đã là quê hương mới của mình, người Việt tha hương có thể đã thấm thía với
sự thật là hầu như cái ác đang thắng cái thiện trên khắp thế giới, chứ không
riêng gì ở Việt Nam. Ðối với những ai còn vọng tưởng tới một tương lai xán lạn
cho tổ quốc Việt Nam về sau, những người đó cần lưu ý ít nhất là 2 điều
này:
1. Khác với trường hợp nước Nga của ông Vladimir Putin qua vụ Ukraine,
đối tượng mà Hoa Kỳ và các quốc gia Liên Âu tha hồ cấm vận kinh tế và chính trị,
thế giới không thể nào cấm vận hoặc trừng phạt kinh tế và chính trị để ngăn chặn
tham vọng bành trướng Ðại Hán của Cộng Sản Trung Hoa, cho dù nước này có hung ác
đối với các nước nhược tiểu (cỡ Tây Tạng, Tân Cương hoặc Việt Nam) đến cách mấy
đi nữa và lại còn đang rình rập để chờ cơ hội thâu tóm cả Hoa Kỳ, bởi vì quyền
lợi kinh tế, tức là quyền lợi vật chất, của các nước tự do, dân chủ trên thế
giới - nhất là Mỹ - tại Cộng Sản Trung Hoa đã quá chằng chịt và quá lớn lao tới
độ không thể dứt ra được nếu họ không muốn chính mình cũng bị “hụt ăn.” Hơn nữa,
thật khó cho các nền kinh tế hạng nhì, hạng ba của thế giới lại đi cấm vận nền
kinh tế hàng đầu thế giới, một vị thế mà, chẳng sớm thì muộn, Trung Cộng sẽ
giành được, bởi vì các công ty tại Mỹ và Âu Châu, vì thiếu tiền, vẫn cứ tiếp tục
“bán mình” cho các nhà đầu tư Trung Cộng mà không hề biết lo cho tương lai của
“tổ quốc” mình khi các kỹ thuật tân tiến do họ nắm giữ lọt vào tay một đối thủ
nham hiểm. (9) Mà chừng nào Ðảng Cộng Sản Trung Hoa còn thì các Ðảng Cộng Sản
Việt Nam và Bắc Hàn vẫn tồn tại, và đó là chân lý bất di, bất dịch, cho dù sông
có thể cạn, núi có thể mòn. Phải biết rằng, trong cuộc giằng co, nếu có, giữa
Trung Cộng và Cộng Sản Việt Nam, thời gian luôn đứng về phía Trung Cộng chứ
không phải về phía Cộng Sản Việt Nam, hay nói nôm na là “hễ ai dài hơi hơn thì
người đó sống.” Mà rõ ràng là Trung Cộng lúc nào cũng dài hơi hơn. (10)
2.
Căn cứ vào quyết tâm không chịu rời bỏ chủ nghĩa Cộng Sản của các nhà lãnh đạo
tại Hà Nội để Việt Nam có thể tách rời khỏi ảnh hưởng của Ðảng Cộng Sản Trung
Quốc cùng những lời tuyên bố và hành động của các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam
trong và sau biến cố giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm lãnh hải Việt Nam hồi
Tháng Năm năm 2014 khi họ chỉ coi đây là “chuyện nhỏ,” nên hiểu rằng Cộng Sản
Việt Nam sẽ không bao giờ ngã về phía Mỹ, Nhật Bản và Ấn Ðộ để hy vọng có thể
giữ gìn độc lập và toàn vẹn lãnh thổ như mọi người ngày đêm vẫn cứ tơ tưởng.
(11) Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ấn Ðộ cũng không cần phải cho tiền, tặng vũ khí cho
Cộng Sản Việt Nam chống đánh Cộng Sản Trung Hoa làm chi cho uổng công và hao
của.
Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng ỡm ờ và lập lờ trong vấn
đề chống hay theo Trung Cộng - phần thì nhằm đánh lừa cộng đồng quốc tế để được
o bế và cho không món này, món nọ, phần thì để xoa dịu đồng bào trong nước cho
bớt đi sức đòi hỏi và chống đối - dù trong bối cảnh cảnh tổ quốc lâm nguy, làm
cho các nhà lãnh đạo thế giới từ Barack Obama (cùng John Kerry) cho đến Shinzo
Abe và Narendra Modi phải lăng xăng, lính quýnh, và làm cho toàn thể dân tộc
Việt Nam bị trị cứ phải mừng hụt hoài. Thật là: “Người khôn ăn nói nửa chừng...”
đúng y như câu ca dao thâm thúy của Việt Nam tự nghìn xưa từng nói
vậy.
Ghi chú:
(1) Hoa Kỳ, và cả Nhật Bản cũng như Ấn
Ðộ, đang ở trong một vị thế rất lúng túng khi muốn ngăn chặn Trung Cộng xâm
chiếm toàn bộ Biển Nam Hoa, bởi vì nếu muốn làm như thế thì hai nước ở phía Tây
và phía Ðông quay mặt vào vùng biển này, tức Cộng Sản Việt Nam và Phi Luật Tân,
phải ở cùng chiến tuyến với họ. Trong khi đó, trên thục tế, Mỹ, Nhật và Ấn chỉ
có được Phi Luật Tân, nước có một quân đội chẳng mạnh mẽ gì, là đồng minh quân
sự trong khi Cộng Sản Việt Nam, từ trước tới nay, chưa hề là đồng minh của Mỹ,
Nhật hay Ấn, ngoài điều may mắn duy nhất là Cộng Sản Việt Nam ngày nay đã thôi
không còn coi Hoa Kỳ là “kẻ thù của nhân dân ta” nữa, mặc dù Hoa Kỳ từ trước tới
nay vẫn vậy, chứ có khác gì đâu. Tình trạng này càng làm tăng thêm giá trị vô
song của Việt Nam Cộng Hòa xưa cũ đối với Hoa Kỳ và các đồng minh Á Châu-Thái
Bình Dương của họ. Nhưng chính Hoa Kỳ, chứ chẳng ai khác, đã tự mình để mất đi
“quân cờ” Việt Nam Cộng Hòa từ hồi 1975 đến nay rồi, giờ đây Hoa Kỳ lấy cái gì
mà đánh đấm nữa trên ván bài “chuyển trục về Á Châu” (“Pivot/Rebalancing to
Asia”) của mình?
(2) Không gì trớ trêu hơn là sự thể, chỉ sau hơn 2 thập niên
khi Liên Bang Xô Viết và Cộng Sản Ðông Âu sụp đổ - kéo theo sự sụp đổ của “liên
minh ma quỷ Nga-Hoa” và nước Nga dân chủ dưới quyền Tổng Thống Boris Yeltsin
đang trên đường trở thành một “đồng minh” của Mỹ và các nước dân chủ, tự do
khác, nước Nga ngày nay của Tổng Thống Vladimir Putin, với lề lối cai trị chẳng
khác gì của một tổng bí thư đảng cộng sản, đang biến Hoa Kỳ trở lại thành kẻ thù
của mình, đồng thời còn quyết tâm phục hồi cái “liên minh ma quỷ Nga-Hoa” trước
đây - qua việc Nga chấp nhận bán khí đốt và vũ khí tối tấn - cỡ máy bay chiến
đấu SU-35 và hỏa tiễn phòng không S-400 cho Trung Cộng mà không còn sợ sệt gì
cho an ninh biên giới của mình nữa- để chống lại Hoa Kỳ và Âu Châu. Chiến lược
“Trợ Tàu, diệt Nga” của Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger
nhằm đánh sụp cái “liên minh ma quỷ Nga- Hoa” nay đã trở thành công dã tràng xe
cát.
(3) Hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới, Nhật Bản, chứ không phải
Cộng Sản Việt Nam, rất có nguy cơ bị Trung Cộng đánh trước nay mai vì mối thù
truyền kiếp giữa 2 cường quốc Á Châu này, nhất là vì cái nhục mà nước Trung Hoa
vào thời trước khi cộng sản nắm quyền tại lục địa (1949) phải hứng chịu dưới bàn
tay quân phiệt Nhật, từ vụ Quân Ðội Thiên Hoàng Nhật tấn công vào Lư Cầu Kiều
cho tới vụ tàn sát hằng chục nghìn dân Trung Hoa ở Nam Kinh (The Nanking
Massacre) - mà thế giới vẫn ưa gọi là Vụ Cưỡng Hiếp Nam Kinh (The Rape of
Nanking)- trong 2 năm 1937 và 1938. Giới lãnh đạo Trung Cộng đã không giấu giếm
ý đồ muốn rửa hận bằng một trận huyết chiến máu chảy thành sông, xương chất
thành núi với Nhật Bản, chỉ ngặt một điều là Chú Sam hiện vẫn còn hùng mạnh và
đang có hiệp ước an ninh chung với xứ Phù Tang nên Trung Cộng đành nghiến răng
kèn kẹt mà nuốt giận. Nếu một mai Hoa Kỳ suy yếu và co cụm lại thì Nhật Bản sẽ
biết tay Trung Cộng ngay. Ngày 22 Tháng Chạp năm 2014, thông tấn xã Kyodo của
Nhật loan tin Trung Cộng đang ráo riết xây dựng một căn cứ quân sự lớn ngoài
khơi tỉnh Chiết Giang gần quần đảo Diaoyu Dao (Ðiếu Ngư) - mà Nhật gọi là quần
đảo Senkaku- nơi Trung Cộng và Nhật Bản vẫn tranh chấp chủ quyền dằng dai. Nguồn
tin thông tấn xã AFP hôm 29 Tháng Giêng năm 2015 cho hay Quân Giải Phóng Nhân
Dân Trung Quốc đã khởi đầu một loạt các cuộc tập tận trên bộ, trên không và trên
biển nhằm “cải thiện khả năng chiến đấu” của các lực lượng võ trang của họ để
giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh cục bộ (local wars).” Rõ ràng là
Trung Cộng đang ráo riết chuẩn bị cho một cuộc đối đầu quân sự quyết liệt với
Nhật Bản trong vùng Biển Hoa Ðông, chưa cần tính tới các nước nhỏ trong vùng
Biển Nam Hoa.
(4) Một bài báo của Michelle FlorCruz trên tờ International
Business Times, ngày 29 Tháng Giêng năm 2015, cho biết Hoa Kỳ tuyên bố cần đến
sự trợ giúp của các máy bay tuần thám Nhật trên Biển Nam Hoa nhằm theo dõi cuộc
tranh chấp lãnh hải đang gây căng thẳng giữa Trung Cộng và các quốc gia Ðông Nam
Á. Hoa Kỳ, Ấn Ðộ, Nhật Bản và các quốc gia Ðông Nam Á ngày nay càng lo lắng về
chủ nghĩa bành trướng bá quyền của Trung Cộng tại Biển Nam Hoa chừng nào thì
việc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa vào tay cộng sản hồi thập niên 1970 trong
thế kỷ trước càng trở nên một lỗi lầm chiến lược tày trời của Quốc Hội Hoa Kỳ
thời đó.
(5) Theo tài liệu “Hải Chiến Hoàng Sa” của Wikipedia tiếng Việt, hồi
năm 1970, Ðô Ðốc Elmo Zumwalt, tham mưu trưởng Hải Quân Hoa Kỳ, đã họp báo tuyên
bố tại Guam rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các
hải đảo tiền đồn của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải Quân Việt
Nam Cộng Hòa thì đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và là nguy
cơ cho Việt Nam Cộng Hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa. Nếu vậy, việc Hoa Kỳ làm
ngơ cho Trung Cộng chiếm Hoàng Sa là chủ trương đã có từ lâu (1970) của (Hải
Quân) Hoa Kỳ - nhằm tránh những cuộc đụng độ không cần thiết giữa lực lượng Mỹ
và lực lượng các quốc gia đang lăm le tranh đoạt những hòn đảo và bãi đá thuộc
Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó, ngoài Việt Nam Cộng Hòa, còn có Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) và Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) trong số
các nước khác - chứ không phải là cuộc trao đổi quyền lợi giữa Nixon và Chu Ân
Lai sau này, bởi vì chính sách “ngoại giao bóng bàn” giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng
chỉ khởi sự từ hồi Tháng Tư năm 1971, và 1 năm sau đó, tức Tháng Hai năm 1972,
mới diễn ra cuộc viếng thăm lịch sử (nhưng tai hại) của Tổng Thống Hoa Kỳ
Richard Nixon đến Bắc Kinh.
(6) Theo Thông Tấn Xã Australian Associated
Press, Edward Snowden, cựu nhân viên Cơ Quan NSA của Mỹ, đã tiết lộ với tạp chí
Ðức Der Spiegel rằng Trung Cộng đã đánh cắp được bản vẽ máy bay F-35 Lightning
II từ công ty Lockheed Martin, nhà thầu chế tạo phi cơ này, hồi năm 2007, rồi
dùng các chi tiết lấy được đó để chế tạo ra các chiếc Chengdu J-20 và Shenyang
J-31.
(7) Tại cuộc hội thảo về “Quan Hệ Việt Nam-Hoa Kỳ: 20 năm thành công
hơn nữa” (“Vietnam-United States: 20 more successful years”) do Học Viện Ngoại
Giao Việt Nam, Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Trị Quốc
Tế của Hoa Kỳ và Ðại Học Portland của Hoa Kỳ phối hợp tổ chức ở Hà Nội vào ngày
26 Tháng Giêng năm 2015, Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Cộng Sản Việt Nam, ông Ted Osius, có
tuyên bố rằng “Hoa Kỳ mong muốn giúp Việt Nam trở thành một quốc gia lớn mạnh,
giàu có và độc lập.” Hai nhân vật khác cũng lạc quan không kém về mối quan hệ
giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là Murray Hiabert và Phương Nguyễn thuộc Trung Tâm
Nghiên Cứu Chính Trị Quốc Tế, đồng tác giả bài báo nhan đề “An Assertive China
Opens the Door to Closer US-Vietnam Naval Ties,” tức “Một Nước Trung Hoa Hùng Hổ
Ðưa Ðến Mối Quan Hệ Hải Quân Mỹ-Việt,” cho rằng nhờ Trung Cộng quá hung dữ nên
Cộng Sản Việt Nam phải hợp tác quân sự với Hoa Kỳ. Cũng nhờ lạc quan, hồi năm
ngoái, Hoa Kỳ đã bãi bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, mở
đường cho các nhà buôn vũ khí Mỹ bán ra các máy bay, chiến hạm và súng ống tân
tiến cho kẻ thù cũ của mình tại Ðông Nam Á mà không chút e dè rằng đây có thể là
một con dao 2 lưỡi nếu nghĩ tới các bí mật về vũ khí của Hoa Kỳ từng được sang
tay cho Trung Cộng qua ngã 2 đồng minh thân thiết của Mỹ (thời Chiến Tranh Lạnh)
nhưng cũng có quan hệ này nọ với Trung Cộng, là Pakistan và Ðài Loan (Trung Hoa
Dân Quốc xưa).
(8) Trái với tính toán của các chiến lược gia lỗi lạc của Hoa
Kỳ trong mưu đồ cung cấp một nền giáo dục siêu đẳng để thâu tóm tinh hoa quốc
tế, một số không nhỏ các khoa học gia ưu hạng gốc Trung Hoa, từng được đào tạo
chuyên môn hoàn hảo tại các học viện kỹ thuật lừng lẫy của Hoa Kỳ, đã chọn con
đường về nước cũ để phục vụ nhằm sớm đưa đất nước họ tiến lên địa vị siêu cường
trên thế giới, bởi vì, bên trong mỗi một người Trung Hoa, luôn tiềm ẩn giấc mộng
Ðại Hán, coi Trung Hoa là trung tâm hội tụ những gì là tinh hoa của thế giới.
Việc các khoa học gia Mỹ gốc Trung Quốc ưa đánh cắp các bí mật của Mỹ trong lãnh
vực kinh tế (trường hợp ông Kexue Huang hồi năm 2011) và quân sự (trường hợp của
kỹ sư Chi Mak hồi năm 2005) để trao cho Trung Cộng và sự thể một số tướng lãnh
đồng minh Ðài Loan của Mỹ đánh cắp bí mật quân sự và vũ khí rồi giao cho Trung
Cộng (trường hợp các Tướng La Hiền Triết hồi năm 2011 và Hứa Nãi Quyền hồi năm
2015) đã chứng minh rằng người Trung Hoa có tinh thần dân tộc (Ðại Hán) cao hơn
bất cứ giống người nào khác trên thế giới.
(9) Từ đầu thế kỷ 21 tới nay, Hoa
Kỳ luôn tránh né chuyện đụng độ với Trung Cộng vì quyền lợi kinh tế chằng chịt
của các tập đoàn tư bản Mỹ (chuyên giật dây các nhà lãnh đạo ở Washington) cũng
có mà vì tâm lý “dại gì lại đem chén kiểu đổi chén sành” cũng có. Hồi Tháng Tư
năm 2001, lúc Tổng Thống George W. Bush mới lên cầm quyền, vị tổng thống thuộc
loại “cao-bồi Texas” này cũng không dám dùng hải và không quân phong tỏa đảo Hải
Nam (như người ta cứ tưởng thế) để lấy lại chiếc máy bay thám thính đã bị Trung
Cộng cưỡng ép hạ cánh xuống đảo này vì bị coi là đã xâm phạm không phận Trung
Cộng trong một chuyến bay do thám. Trung Cộng bắt được chiếc phi cơ đó, một
chiếc EP-3E ARIES II, và đã lấy đi nhiều bí mật quân sự cũng như tháo gỡ một số
máy móc kỹ thuật trên chiếc phi cơ trước khi đem trả “cái xác không hồn” này về
cho Mỹ. Cũng thế, trong vụ Iran tịch thu chiếc máy bay drone của Hoa Kỳ, một
chiếc RQ-170 Sentinel, lạc đường bay qua biên giới nước này, hồi Tháng Chạp năm
2011, thời Tổng Thống Barack Obama, Mỹ đâu có dám hành quân lấy lại chiếc máy
bay này. Iran đã kéo chiếc máy bay đó về một nơi thanh vắng và mời các chuyên
gia quân sự háo hức của Nga và Trung Cộng đến phanh thây, xẻ thịt chiếc máy bay
để ăn cắp kỹ thuật, rồi mỗi nước từ đó chế tạo ra những chiếc drone giống hệt
như chiếc máy bay đáng thương đó của Mỹ. Giới lãnh đạo đa mưu, túc trí Bắc Kinh,
chứ không phải Mạc Tư Khoa, đã ngồi quan sát rất kỹ phản ứng của Hoa Kỳ qua 2 vụ
này để có thể đi các nước cờ kế tiếp. Các quốc gia Trung Cộng, Nga và Iran -
không chừng còn có cả Bắc Hàn nữa - những kẻ ưa thách thức Hoa Kỳ, đều bắt mạch
thấy Hoa Kỳ bây giờ cũng vẫn chỉ là một “con cọp giấy,” coi bộ còn tệ hơn thời
Chiến Tranh Lạnh ngày nào nữa, bởi vì ngày nay quyền lợi to lớn của các đại công
ty Mỹ luôn trói tay các chính quyền liên tiếp ở Washington không cho đụng tới
Trung Cộng, trong khi các khoản chiến phí khổng lồ lại làm cho Mỹ phải nghĩ đi,
nghĩ lại, nếu không nói là ngán ngẩm, trước viễn tượng phải lâm chiến với các
nước khác như Nga hoặc Iran hoặc Bắc Hàn.
(10) Ðiều mỉa mai là sự tồn tại của
chế độ Cộng Sản tại Việt Nam chỉ dựa vào cái “không biết” và cái “biết” của
chính người dân Việt Nam. Trước năm 1975, vì “không biết” chủ nghĩa Cộng Sản là
tồi tệ, đa số dân chúng ở Việt Nam - kéo theo giới phản chiến tại Mỹ và các nước
Âu Châu - đã đi theo hoặc hùa theo Cộng Sản để dẫn đến chiến thắng cuối cùng của
họ tại Miền Nam Tự Do vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Sau năm 1975, chính vì
“biết” rằng Cộng Sản Việt Nam sẽ tồn tại lâu dài nếu họ cứ bám riết theo đàn anh
Trung Cộng, một số người Việt Nam, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, bằng cách
này hay cách khác, vẫn tiếp tục ủng hộ chính quyền Hà Nội. Tuy nhiên, điều này
sẽ không còn đứng vững được nữa một khi nền kinh tế Trung Cộng sụp đổ - kéo theo
xuống vực sâu giấc mộng tranh bá, đồ vương của Trung Cộng - theo như sự tính
toán của một số kinh tế gia quốc tế hiện nay.
(11) Nếu Cộng Sản Việt Nam chịu
từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản để đi theo con đường dân chủ đa nguyên, đa đảng thì
Việt Nam sẽ không cần gì đến Trung Cộng. Nhưng nếu Cộng Sản Việt Nam vẫn cứ khư
khư giữ lấy chế độ độc tài, đảng trị Cộng Sản (như họ đang làm hiện nay) thì
đương nhiên là họ phải bám riết theo Trung Cộng để được che chở mà sống còn,
thay vì chạy theo Mỹ để rồi cứ bị siêu cường này áp lực phải chuyển sang con
đường tự do, dân chủ phóng khoáng mà họ cho là hay nhất (như họ đã từng làm đối
với Miền Nam Việt Nam thời Ðệ Nhất Cộng Hòa dưới quyền của Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm, để rồi Việt Nam Cộng Hòa suy yếu rồi mất luôn vào tay Cộng
Sản).
Đêm đêm mẹ đốt cây hương ngát / Mẹ khấn đôi lời con có nghe / Vì nước bỏ mình là bất tử / Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
Saturday, February 27, 2016
Wednesday, February 24, 2016
First Presentation of MG Singlaub Award
FORT BRAGG, N.C. -- An award created in honor and recognition of retired
U.S. Army Maj. Gen. John K. Singlaub's courageous actions on and off
the battlefield as well as his significant contributions to U.S. Army
Special Operations Forces, was presented to a deserving operator during
the U.S. Army Special Operations Command Red and Black Ball, on Feb. 20,
2016.
Chief Warrant Officer 2 George A. Valdez, a team sergeant with 7th Special Forces Group (Airborne), was recognized as the first recipient of the award during the inaugural presentation ceremony.
"Valdez distinguished himself during six combat and two operational deployments spanning Iraq, Afghanistan, El Salvador, and other locations. During his most recent deployment to Afghanistan, Valdez successfully led his Special Forces Operational Detachment-Alpha through more than 15 firefights and the disarming of 82 IED's (Improvised Explosive Devices) without the loss of a single Soldier," Horton said.
This award will be presented annually to deserving recipients who exemplify the Army Special Operations Forces Next traits, the ARSOF promise, and demonstrate an unwavering commitment to bettering ARSOF.
"The award recipient receives a rosewood plaque with a two-dimensional medallion bearing the raised likeness of Maj. Gen. Singlaub, donated by the Special Operations Association, and a USASOC certificate recognizing him as this year's Maj. Gen. Singlaub Award winner," said Capt. Kenneth T. Horton, USASOC DCS G-1 Personnel Operations Division. "In addition his name will be engraved on a command plaque displayed in the USASOC Headquarters building commemorating all future winners of the award."
Among his many accomplishments listed during the USASOC Ball, Valdez is described by Horton as a "Dynamic, innovative, and adaptive leader that serves as an outstanding representative of the entire Army Special Operations Community."
Regarded as the most significant event of the night, the Singlaub Award presentation was extremely unique because it was presented by Singlaub himself who was 94 at the time of the presentation.
As Col. Miguel A. Correa, Chief of Staff for USASOC, spoke about some of the characteristics of Singlaub's, saying he is "a very spry 94 years old because earlier this morning he challenged me to a push-up competition." Though it says a lot about his character, that is not what makes Singlaub such a remarkable leader and Soldier.
"Maj. Gen. Singlaub is a legend among SOF warriors, a forefather of the modern day Green Beret, and has had a long and distinguished career and history in Special Operations. He served in the office of strategic services (OSS) in WWII in both France and China," Correa added. "During the Korean War, he helped to create the Ranger Training Center at Fort Benning, GA, served with the CIA, and commanded an infantry battalion. In Vietnam, he commanded the military assistance command Vietnam-Studies and Observation Group (MACVSOG)."
It's events like parachuting into Nazi-Occupied France during World War II, on a mission to help organize and re-supply resistance elements behind enemy lines to fight back, while knowing that if captured, he was likely to be tortured and killed that are a true testament of his character, service, and his merit for the creation of this award in his honor.
"Every day the Luftwaffe would come and bomb us. So I sent a message complaining about this and got an answer back a day later saying 'according to you, you are receiving more air-attacks than the forces that landed in Normandy,' Singlaub said. "Which of course was true, because the forces that landed in Normandy, didn't land until the Luftwaffe had been driven in to where we were."
Despite his experiences in WWII, Singlaub still believes in the 'run towards the gunfire' mentality, saying: "Go to the sound of the cannon and solve the problem on the battlefield, don't worry about your career it'll take care of itself if you survive."
Chief Warrant Officer 2 George A. Valdez, a team sergeant with 7th Special Forces Group (Airborne), was recognized as the first recipient of the award during the inaugural presentation ceremony.
"Valdez distinguished himself during six combat and two operational deployments spanning Iraq, Afghanistan, El Salvador, and other locations. During his most recent deployment to Afghanistan, Valdez successfully led his Special Forces Operational Detachment-Alpha through more than 15 firefights and the disarming of 82 IED's (Improvised Explosive Devices) without the loss of a single Soldier," Horton said.
This award will be presented annually to deserving recipients who exemplify the Army Special Operations Forces Next traits, the ARSOF promise, and demonstrate an unwavering commitment to bettering ARSOF.
"The award recipient receives a rosewood plaque with a two-dimensional medallion bearing the raised likeness of Maj. Gen. Singlaub, donated by the Special Operations Association, and a USASOC certificate recognizing him as this year's Maj. Gen. Singlaub Award winner," said Capt. Kenneth T. Horton, USASOC DCS G-1 Personnel Operations Division. "In addition his name will be engraved on a command plaque displayed in the USASOC Headquarters building commemorating all future winners of the award."
Among his many accomplishments listed during the USASOC Ball, Valdez is described by Horton as a "Dynamic, innovative, and adaptive leader that serves as an outstanding representative of the entire Army Special Operations Community."
Regarded as the most significant event of the night, the Singlaub Award presentation was extremely unique because it was presented by Singlaub himself who was 94 at the time of the presentation.
As Col. Miguel A. Correa, Chief of Staff for USASOC, spoke about some of the characteristics of Singlaub's, saying he is "a very spry 94 years old because earlier this morning he challenged me to a push-up competition." Though it says a lot about his character, that is not what makes Singlaub such a remarkable leader and Soldier.
"Maj. Gen. Singlaub is a legend among SOF warriors, a forefather of the modern day Green Beret, and has had a long and distinguished career and history in Special Operations. He served in the office of strategic services (OSS) in WWII in both France and China," Correa added. "During the Korean War, he helped to create the Ranger Training Center at Fort Benning, GA, served with the CIA, and commanded an infantry battalion. In Vietnam, he commanded the military assistance command Vietnam-Studies and Observation Group (MACVSOG)."
It's events like parachuting into Nazi-Occupied France during World War II, on a mission to help organize and re-supply resistance elements behind enemy lines to fight back, while knowing that if captured, he was likely to be tortured and killed that are a true testament of his character, service, and his merit for the creation of this award in his honor.
"Every day the Luftwaffe would come and bomb us. So I sent a message complaining about this and got an answer back a day later saying 'according to you, you are receiving more air-attacks than the forces that landed in Normandy,' Singlaub said. "Which of course was true, because the forces that landed in Normandy, didn't land until the Luftwaffe had been driven in to where we were."
Despite his experiences in WWII, Singlaub still believes in the 'run towards the gunfire' mentality, saying: "Go to the sound of the cannon and solve the problem on the battlefield, don't worry about your career it'll take care of itself if you survive."
Friday, February 12, 2016
Toan Xam Nhap Mien Bac qua tai lieu cua Bao CAND Viet Cong tai Nghe An
Xin chúc các bạn nhiều nghị lực...
Đứng thẳng bằng chính đôi chân của mình.
Xin cảm ơn bạn.
X20/Dang Chi Binh
cuộc PV của BBC với ĐCB do Quốc Phương.. ...
Chuyên án BK63: 10 năm 'dắt mũi' CIA
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, với âm mưu "đánh Cộng sản trong lòng Cộng sản", Cơ quan Tình báo Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã tung ra miền Bắc hàng trăm tên gián điệp, biệt kích. Tất cả số này đều bị ta tiêu diệt hoặc bắt sống; không những thế, lực lượng Công an nhân dân (CAND) còn thực hiện thành công chiến thuật "dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch". Chuyên án BK63 là một chiến công tiêu biểu của cuộc đấu tranh bí mật này.
Trong suốt
10 năm (1961- 1970), lực lượng an ninh đã dùng chính gián điệp mà CIA
đánh ra Bắc để câu nhử CIA đưa phương tiện và nhiều toán biệt kích ra
Bắc theo ý đồ của ta. Được sự giúp đỡ của Cục Chính trị Tổng cục An
ninh, phóng viên Chuyên đề ANTG đã tiếp cận khá đầy đủ hồ sơ chuyên án.
Loạt bài tư liệu này sẽ dựng lại phần nào cuộc đấu trí suốt 10 năm của
các cán bộ an ninh với trung tâm CIA…
KỲ I: CHIẾC THUYỀN LẠ TRÊN BÃI BIỂN VÀ CUỘC TRUY LÙNG "NGƯỜI TRỞ VỀ"
1.
Một buổi sáng đầu tháng 4/1961, cũng như bao buổi sáng khác, ông Ngột,
một ngư dân ở thôn La Khê, xã Tiền An, huyện Yên Hưng, tỉnh Hồng Quảng
(nay là Quảng Ninh) cùng một bạn chài từ trong làng ra bến thuyền để đi
biển. Nhưng khi qua đầm Thùa (thôn La Khê), hai người bất ngờ thấy có
một chiếc thuyền nan có kiểu dáng rất lạ, không giống như của ngư dân
vùng Hồng Quảng đang sử dụng.
Tò mò, hai
người đến xem thì thấy trong thuyền có hai chiếc bơi chèo, một chiếc
giỏ đan bằng mây để đựng cá, một cần câu, một ống câu. Thấy những vật
này bỏ trong chiếc thuyền vô chủ, ông Ngột đã lấy mang về nhà, còn chiếc
thuyền thì mang để ở bến thuyền với ý định sẽ dùng chung. Nhưng sáng
hôm sau, khi ra bến thì không thấy chiếc thuyền đâu nữa.
Chuyện
chiếc thuyền lạ lập tức được báo cho Cơ quan Công an. Công an huyện Yên
Hưng sau đó cử cán bộ đi xác minh đã tìm thấy chiếc thuyền lạ này ở một
xã khác cách xã Tiền An 2km. Người chủ của chiếc thuyền trình bày rằng
anh ta mua lại của một gia đình thuyền chài.
Đúng lúc
chuyện chiếc thuyền lạ bỗng nhiên dạt vào bờ còn chưa hết xôn xao thì
mấy hôm sau, anh Phạm Văn Hán, ở xã Tiền An lên báo với Công an xã rằng
mẹ anh là bà Trới, chiều ngày 9/4 khi lên núi Đầm Thùa lấy củi thì bất
ngờ thấy ở gần nhà Phạm Ốc có một người đàn ông lạ ngồi trong bụi rậm,
xung quanh có rất nhiều quần áo. Khi thấy bà, người này úp mặt trên đầu
gối như che mặt rồi gừ lên một tiếng nghe sởn tóc gáy, tưởng ma, bà vứt
cả dao lẫn củi bỏ chạy về nhà.
Báo cáo của Sở Công an Hồng Quảng gửi Bộ Công an về việc bắt Phạm Chuyên.
|
Khi Công
an huyện cử cán bộ đến gặp bà Trới để hỏi chuyện này thì bà nói rằng
không có gì cả, người ngồi trong bụi rậm hôm ấy là Phạm Ốc, hôm đó đi
lấy dây rừng về buộc chuồng lợn, thấy bà đi một mình nên định trêu bà
thôi. Sau đó Ốc đã đến nhà xin lỗi vì làm bà sợ.
Tuy nhiên,
với các cán bộ an ninh, xâu chuỗi những thông tin lại đã khiến họ đặt
một nghi vấn lớn hơn, bởi Phạm Ốc có một người anh ruột là Phạm Chuyên
vốn là một phần tử chống đối ở địa phương nhưng hai năm trước đã bỏ trốn
đi Nam.
Theo hồ sơ
lưu tại Cơ quan Công an thì Phạm Chuyên sinh năm 1922, thời Pháp thuộc
đi lính khố xanh và được đi học về điện đài. Sau Cách mạng Tháng Tám,
Chuyên tham gia Cách mạng và được kết nạp vào Đảng và có một thời gian
làm ở Ty Công an Quảng Yên. Tháng 10/1947, Chuyên bị Pháp bắt, sau được
tha và làm thư ký hội đồng ở thị xã Hồng Gai. Tháng 5-1948, Chuyên bỏ về
quê, sau đó chạy vào căn cứ địa cách mạng ở huyện Hoành Bồ và được kết
nạp Đảng lại.
Cuối năm
1948, Chuyên được phân công phụ trách 3 xã ở huyện Yên Hưng; đầu năm
1949, Chuyên được điều về làm ở Ban Thi đua tỉnh; đầu năm 1950 chuyển
sang làm ở Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Yên. Năm 1953, khi được cử đi học
trường Đảng, Chuyên bị tố hủ hóa sau đó đã cùng tình nhân bỏ vào vùng
địch nên lại bị khai trừ Đảng. Sau hòa bình, dù được bố trí công tác
trong một cơ quan, nhưng cuối năm 1957, Chuyên bất mãn, nên bỏ cơ quan
về và gọi cả em trai là Phạm Ốc lúc đó đang học y sĩ bỏ học về nhà.
Về quê,
sẵn tư tưởng bất mãn nên Chuyên sáng tác ca dao, hò vè đả kích, khích
động quần chúng đấu tranh. Tháng 6/1959, sau khi bị Tòa án nhân dân
huyện Yên Hưng gọi lên xét hỏi về hành động chống đối chính quyền, khi
được cho về viết kiểm điểm, Chuyên đã bỏ trốn đi Nam. Thời gian sau đó,
có bưu thiếp của Chuyên gửi về báo tin Chuyên làm ăn phát đạt.
Một loạt
câu hỏi được đặt ra: Phải chăng Phạm Chuyên đã quay về? Người ngồi trong
bụi rậm chính là hắn? Việc Phạm Ốc tự nhận là người ở bụi cây dọa bà
Trới là một trò đánh lạc hướng điều tra của công an và để dập tắt mọi sự
nghi ngờ?
Một báo
cáo khẩn cấp của Công an Hồng Quảng gửi về Bộ Công an. Sau khi nhận được
chỉ thị của Bộ, một đội trinh sát tinh nhuệ bí mật triển khai bám sát
những thành viên trong gia đình Phạm Ốc và theo dõi những biến động khả
nghi ở vùng lân cận.
Đêm
6/6/1961, phát hiện Phạm Đắc, em ruột Phạm Chuyên, xách một túi vải đi
về thị xã Quảng Yên với nhiều dấu hiệu nghi vấn, tổ công tác quyết định
bắt Phạm Đắc đưa về Đồn Công an Quảng Yên. Tại đây, khi khám xét chiếc
túi đã thu giữ một máy phát tin, một gói cơm nếp và một số thực phẩm.
Đấu tranh ngay trong đêm, Đắc khai chiếc máy này là của Phạm Chuyên,
chiếc thuyền nan mà người dân xã Tiền An phát hiện thấy ở bờ biển chính
là thuyền của Chuyên.
Kế hoạch
vây bắt Phạm Chuyên được vạch ra. Khuya 11/6/1961, đồng chí Nguyễn Minh,
Trưởng Ty Công an Hồng Quảng đã chỉ huy tổ trinh sát đặc nhiệm bí mật
bắt Phạm Chuyên ngay tại nhà. Khám nhà, công an thu được 19 bộ lốc mã
giấu trong cót thóc. Mở rộng diện đấu tranh, ta thu được trọn bộ điện
đài vô tuyến điện gồm một máy thu, một máy phát và một máy phát điện
quay tay.
Từng làm
công an và lại được CIA đào tạo bài bản nên những ngày đầu bị bắt, Phạm
Chuyên kiên quyết không khai và giở nhiều thủ đoạn để đối phó với cán bộ
điều tra. Sau khi nhận báo cáo của Công an Hồng Quảng, đồng chí Nguyễn
Tài, lúc đó là Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị (đồng chí Nguyễn Tài sau
này là Thứ trưởng Bộ Công an, rồi chuyển sang làm Tổng cục trưởng Tổng
cục Hải quan), trực tiếp xuống Hồng Quảng.
Sau những
cuộc trò chuyện với Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài nhận ra một điều
Phạm Chuyên là kẻ tráo trở nhưng lại rất thương mẹ, thương em, vì vậy
cùng với việc thuyết phục Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài cũng chỉ
đạo phải làm tốt chính sách với với gia đình Phạm Chuyên. Vì vậy mà sau
vài lần nói chuyện với Cục trưởng Nguyễn Tài, cùng với sự tác động của
các cán bộ an ninh, Phạm Chuyên mới khai lại toàn bộ.
2. Trong
bản báo cáo ngày 5/7/1961 có đóng dấu "tối mật" của Sở Công an khu Hồng
Quảng đã trình bày lại toàn bộ quá trình trốn vào Nam của Phạm Chuyên
như sau:
Ngày 25/6/1959, sau khi được Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng cho về viết kiểm thảo, Phạm Chuyên quyết định bỏ trốn.
Ban đầu
Chuyên lên Hà Nội rồi mua vé xe khách đi vào Vinh. Từ Vinh, Chuyên đi
theo đường số 8 lên biên giới rồi vượt biên sang Lào. Sang Lào, sau khi
được tiếp nhận, Chuyên được đưa về Savanakhet để thẩm vấn. Sau 9 tháng ở
Lào và qua nhiều vòng thẩm vấn, Chuyên được đưa về trung tâm tiếp đón
đồng bào vượt tuyến ở Sài Gòn. Tháng 5/1960, sau khi trải qua nhiều vòng
thẩm vấn, Chuyên đề đạt nguyện vọng được có một việc làm để sinh sống,
khi nào cần sẽ tình nguyện về miền Bắc làm việc, nếu không xin cứ cho
nằm lại ở trung tâm.
Công việc
mà Chuyên được Sở Nghiên cứu chính trị giao cho làm sau đó là đi nói
chuyện ở một số địa phương với nội dung xuyên tạc về chính sách thuế
nông nghiệp, hợp tác xã ở miền Bắc.
Sau vài
tháng đi nói chuyện, một ngày đầu tháng 9/1960, một người tên là Phan
đến gặp Chuyên. Phan giới thiệu là nhân viên của Sở Nghiên cứu chính trị
thuộc Phủ Tổng thống (thực chất là cơ quan tình báo, phản gián chiến
lược của chính quyền VNCH được thành lập năm 1956 do Trần Kim Tuyến làm
giám đốc. Sở này có nhiệm vụ điều tra, thu thập tin tình báo chiến lược
về mọi mặt; tổ chức, chỉ huy các hoạt động gián điệp tại Bắc Việt, bảo
vệ an ninh nội bộ…).
Huấn luyện biệt kích tại Đà Nẵng. |
Câu chuyện
của Phan vẫn chỉ xoay quanh việc Chuyên vượt tuyến, việc Chuyên từng
học điện đài thời Pháp thuộc. Cuối cùng, Phan mới lật bài ngửa với
Chuyên khi hỏi thẳng có dám mạo hiểm trở lại miền Bắc không. Sau khi
Chuyên đồng ý, Phan hẹn lần sau sẽ gặp để bàn tiếp công việc.
Vài ngày
sau, Phan lại tới và yêu cầu Chuyên tự viết bản kế hoạch hoạt động khi
quay trở lại miền Bắc. Chuyên lập tức viết một bản kế hoạch, trình bày
chi tiết từ kế hoạch vượt tuyến trở lại miền Bắc, tới phương pháp gây
dựng cơ sở khi ra Bắc, cách thức lãnh đạo đấu tranh, phương tiện liên
lạc để cung cấp tin cho trung tâm ở Sài Gòn và cả dự trù kinh phí hoạt
động… Cầm bản kế hoạch này, Phan ra về và hẹn sẽ gặp lại sau khi nghiên
cứu.
Một buổi
chiều giữa tháng 9/1960, Phan quay trở lại gặp Chuyên và đưa Chuyên đến
khách sạn Majestic để gặp một người Mỹ. Người Mỹ này lại hỏi Chuyên
những câu hỏi mà Phan đã hỏi nhiều lần; gã người Mỹ còn hỏi Chuyên về ấn
tượng với chính thể miền Nam rồi sau đó câu chuyện kết thúc. Một tuần
sau, Phan lại đưa Chuyên đến gặp gã người Mỹ nhưng địa điểm là ngôi biệt
thự trên một con phố. Gã người Mỹ lại đặt những câu hỏi trắc nghiệm tâm
lý. Khi kết thúc, gã nói với Chuyên rằng "cán bộ của chính phủ sẽ gặp
ông nữa. Riêng tôi, chúc ông thành công".
3.
Đó là nội dung Phạm Chuyên khai vào tháng 6/1961. Mấy chục năm sau,
trong cuốn sách "Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội
VNCH" của dịch giả, giáo sư Vũ Đình Hiếu (Giáo sư Vũ Đình Hiếu là một
cựu biệt kích quân đội VNCH, sang Mỹ năm 1975, đi học trở lại, sau này
trở thành giáo sư chuyên ngành Công nghệ thông tin, từng giảng dạy các
trường đại học ở bang Texas - (Mỹ), căn cứ vào những tài liệu đã giải mã
của Lầu Năm Góc cũng đề cập tới việc CIA và tình báo VNCH tuyển chọn
Phạm Chuyên, trong đó có nhắc tới 2 người đã thẩm vấn và đào tạo Chuyên,
đó là Trung úy Đỗ Văn Tiên, nhân viên của Phòng 45 và Edward Reagan,
nhân viên CIA.
Phòng 45
là mật danh của Phòng Bắc Việt, trực thuộc Phòng Liên lạc Phủ Tổng
thống VNCH, thực chất là một đơn vị tình báo do CIA lập ra vào cuối năm
1958 gồm 12 sĩ quan người Việt cấp bậc từ thiếu úy đến trung úy. Tất cả
những người này đều do CIA tuyển chọn và đào tạo về nghiệp vụ tình báo,
tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình báo.
"Phòng 45
lập kế hoạch 5 năm để xâm nhập vào vùng hậu phương mà đối phương kiểm
soát rất chặt chẽ. Lần này Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống giao trách
nhiệm cho Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) phái một điệp viên
đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một người thích hợp là
Phạm Chuyên, nguyên là một đảng viên biến chất, quê ở tỉnh Quảng Ninh.
Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam.
Thoạt đầu
Phạm Chuyên từ chối, mặc dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho đàn em theo
dõi, dụ dỗ suốt nửa năm trời. Trung úy Tiên (Francois) buộc phải cộng
tác với một nhân viên CIA là Edward Reagan tìm cách thuyết phục Chuyên.
Sau hơn 6 tháng CIA trổ tài, Phạm Chuyên nhận lời. Anh ta được đưa ra
Nha Trang để làm kỳ trắc nghiệm tâm lý. Chuyên đạt điểm xuất sắc trong
kỳ trắc nghiệm.
Sau đó,
Chuyên còn phải trải qua hai kỳ khảo nghiệm nữa, một ở Sài Gòn và một ở
Nha Trang. Tiếp theo CIA huấn luyện cho Chuyên 6 tháng về kỹ năng truyền
tin. Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì Trung úy Tiên và
Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc…".
Nhưng, đây
là chuyện của mấy chục năm sau, khi các hồ sơ đã được giải mật. Còn
vào thời điểm năm 1961 thì CIA vẫn chắc mẩm rằng đã thành công khi đưa
được Phạm Chuyên trở lại miền Bắc an toàn…
KÌ 2: Điệp viên Ares và hành trình trở lại miền Bắc Việt Nam
1. Sáng sớm ngày 5/4/1961, tại một bến tàu ở Đà Nẵng, một chiếc tàu hình dáng như tàu đánh cá trọng tải khoảng 40 tấn chở theo một chiếc xuồng cao su và một chiếc thuyền nan nhỏ lặng lẽ rời bến. Ra khỏi cửa biển Đà Nẵng, chiếc tàu nhằm thẳng hướng Tây - Bắc.
Trên tàu, ngoài thuyền trưởng và mấy thủy thủ, có một người khách nói giọng Bắc. Các thủy thủ chỉ được thuyền trưởng thông báo đó là một cán bộ của Trung ương đi công tác đặc biệt và là người chỉ huy chung trên suốt hành trình. "Cán bộ Trung ương" ấy không ai khác chính là Phạm Chuyên.
Chạy mải
miết suốt 3 ngày, tới 4 giờ chiều 7/4, khi đã ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ,
thấy phía trước mặt lờ mờ nhiều dãy núi đá, thuyền trưởng cho tàu dừng
lại, nấu cơm ăn và nắm cho Chuyên một nắm to.
Khi bữa
cơm chiều kết thúc đã là 6 giờ 30 phút. Cuối xuân nên trời tối rất
nhanh, thuyền trưởng cho tàu nhổ neo nhằm thẳng hướng có dãy núi đá chạy
vào bờ. Sau hơn 3 giờ, tàu đã đi vào khu vực Hồng Gai. Khi chạy qua
luồng Cửa Dứa, đến gần một quả núi cao, Quân, gã lái tàu vốn là một ngư
dân trước khi vượt tuyến vào Nam đã có thâm niên đi biển ở khu vực Quảng
Ninh - Hải Phòng 20 năm nên rất thành thạo luồng lạch, khẳng định là
núi cột cờ, Quân cho tàu dừng lại, thuyền trưởng lệnh cho nhóm thủy thủ
hạ chiếc thuyền nan và chiếc xuồng cao su xuống nước.
Sau hơn
nửa tiếng chuẩn bị, đưa máy truyền tin và hành lý của Chuyên lên thuyền
nan, buộc chiếc thuyền nan vào phía sau xuồng cao su, Chuyên ngồi lên
chiếc thuyền nan, Quân lái chiếc xuồng cao su chạy về phía hang Đầu Gỗ
rồi rẽ sang ghềnh Si.
2 giờ sáng
ngày 8/4, đến ghềnh Si, Quân lái xuồng cao su quay lại tàu, Chuyên bơi
thuyền nan theo kênh tiến vào núi đất. Vì nước xuống rất mạnh, lại chèo
ngược dòng nên đến gần sáng, Chuyên mới vào được bờ. Vội vã vác hai
chiếc máy truyền tin cùng tư trang lên giấu ở rừng sú, Chuyên kéo chiếc
thuyền vào một lạch nhỏ giữa rừng sú và trốn trong rừng cả ngày. Vậy là
sau 22 tháng bỏ trốn vào Nam, Phạm Chuyên đã trở lại quê hương nhưng với
một vai trò khác, điệp viên của CIA với mật danh Ares.
Báo cáo của Sở Công an Hồng Quảng về việc khai thác Phạm Chuyên sau gần hai tháng bắt giữ.
|
2.
Để chuẩn bị cho chuyến trở về này của Chuyên, trước đó gần một năm,
Phan (tức trung úy Đỗ Văn Tiên (biệt danh Francois), nhân viên Phòng 45)
và nhân viên CIA Edward Reagan đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng.
Đầu tháng
10-1960, sau khi vượt qua các vòng thẩm vấn, Phan đưa Chuyên đến một căn
phòng trên tầng 5 ngôi nhà số 13 đường Kỳ Đồng. Tại đây, Phan thông báo
với Chuyên rằng Tổng bộ đồng ý tuyển dụng, từ hôm nay Chuyên sẽ phải
trải qua một khóa đào tạo. Thời gian học, Chuyên được hưởng lương 3.000
đồng tiền miền Nam/ tháng. Sau thời gian học, lương sẽ tăng lên 5.000
đồng/ tháng.
Ngay ngày
hôm sau, Phan bắt đầu công việc huấn luyện Chuyên bằng cách đưa cho một
tập tài liệu về phương pháp công tác yêu cầu đọc kỹ, sau đó có gì thắc
mắc thì hỏi lại và cùng thảo luận. Nội dung tài liệu này là hướng dẫn
các phương pháp hoạt động gián điệp gồm: công tác bí mật; hướng phát
triển cơ sở; tuyên truyền - điều tra - phân tích, chia loại; lãnh đạo
đấu tranh; liên lạc báo cáo… Thời gian đọc và thảo luận tài liệu này
trong 1 tuần.
Sau một
tuần học về phương pháp công tác, Phan đưa một người nữa, giới thiệu tên
là Tý, nhân viên điện đài đến hướng dẫn Chuyên về cách truyền tin bằng
vô tuyến điện. Giữa tháng 1/1961, khi đã thành thạo việc phát tin,
Chuyên được chuyển đến một ngôi nhà ở đường Nguyễn Biểu để thực tập.
Thời kỳ đầu tập liên lạc với Đài P8M ở ngay Sài Gòn, sau đó chuyển sang
liên lạc với một đài ở xa hơn. Sau gần một tháng thực tập, khi đã thành
thục, Chuyên phải trải qua một cuộc kiểm tra. Kết thúc khóa học này, tên
đài của Chuyên được trung tâm đặt là ARES; bí danh của Chuyên là "Hạ
Long". Khi liên lạc, trung tâm sẽ xưng hô là "Tổng bộ".
Phan còn
hướng dẫn Chuyên trong trường hợp không liên lạc được qua điện đài thì
sẽ dùng thư, bưu thiếp để báo cáo tình hình. Tất cả thư, bưu thiếp đều
dùng danh nghĩa hai em trai của Chuyên là Phạm Ốc và Phạm Đắc gửi cho
Chuyên qua một người khác làm trạm trung gian. Bưu thiếp sẽ gửi tới 2
địa chỉ: Phạm Kỷ, số 186 ấp Tây 3, xã Phú Nhuận, quận Tân Bình - Gia
Định và Phạm Thị My, học sinh đệ nhất Trường Lê Quý Đôn, số 216 Phan
Đình Phùng - Sài Gòn. Thư chỉ gửi cho bà Kraemer Jean ở Pháp.
Sau kỳ
nghỉ Tết Nguyên đán, giữa tháng 2/1961, Phan quay lại gặp Chuyên để tiếp
tục huấn luyện về chính trị. Kết thúc khóa học, Phan đưa Chuyên ra Nha
Trang nghỉ mát nửa tháng. Trong nửa tháng ở Nha Trang, Phan tiếp tục
đưa bản kế hoạch công tác khi trở ra Bắc của Chuyên viết trước đó để
thảo luận, đặc biệt là cách nói dối thế nào cho hợp lý nếu sau khi ra
Bắc mà bị bắt và Công an miền Bắc không thu được tài liệu. Cả hai thống
nhất trong hoàn cảnh này Chuyên sẽ khai do vào Nam không được thu dung
vì bị nghi vấn nên quyết định vượt tuyến quay về đầu thú, chưa kịp ra
trình diện thì đã bị bắt.
Nhưng khi
bàn đến phương án nếu bị bắt mà Công an thu được cả máy móc, tài liệu
thì cả hai không tìm được tiếng nói chung, Phan nói rằng trong hoàn cảnh
ấy Chuyên "tùy cơ ứng biến" nhưng tuyệt đối không được nhận là "cán bộ
chính trị miền Nam cử ra Bắc" vì như vậy sẽ là vi phạm Hiệp định Geneve.
Sau đó, Phan đưa Chuyên ra Đà Nẵng nhận tàu.
Nhiệm vụ
mà Chuyên được giao trong lần quay trở lại miền Bắc là: tổ chức cơ sở
quần chúng; tổ chức một khu căn cứ chuẩn bị cho hoạt động vũ trang; tổ
chức cơ sở vùng biên để làm cơ sở đón tiếp tế về người, vũ khí, hàng hóa
lương thực từ miền Nam ra; cập nhật và báo cáo tin tức về các mặt quân
sự, chính trị, kinh tế ở vùng hoạt động.
Phan bàn
rất kỹ với Chuyên về đối tượng tiếp cận để gây dựng lực lượng, theo đó,
ngoài dân chài, thì phải đặc biệt chú ý tới cán bộ xã, đoàn viên thanh
niên. Khi đã có lực lượng, giai đoạn đầu tùy theo tình hình phát triển
của cơ sở và dựa vào chính sách, hướng dẫn quần chúng tham gia đấu tranh
hợp pháp với những bất hợp lý trong việc thực hiện chính sách dân công,
hợp tác xã… Việc chuyển hình thức đấu tranh tùy theo sự phát triển của
cơ sở và theo sự chỉ đạo từ trung tâm, dứt khoát không được tự động làm
khi chưa có lệnh.
Theo kế
hoạch Phan đưa ra, sau khoảng 1 đến 2 năm, khi Chuyên đã gây dựng được
cơ sở vững và guồng máy hoạt động tốt, trung tâm sẽ cử người ra hoặc
Chuyên chỉ định người mà mình đã tuyển để thay thế, Chuyên sẽ trở lại
miền Nam. Trong trường hợp bị lộ, Chuyên báo cáo để trung tâm tổ chức
đón. Trường hợp khẩn cấp, có thể bị bắt thì Chuyên rút vào rừng trốn,
chờ trung tâm tổ chức cho tàu ra đón bằng đường biển…
3. Sở dĩ
Phạm Chuyên được đào tạo kỹ lưỡng như vậy vì Ares là điệp viên đầu tiên
do CIA đào tạo để đánh ra miền Bắc. CIA kỳ vọng nếu Ares xâm nhập và
hoạt động được ở miền Bắc sẽ là cơ sở để tiếp tục đưa điệp viên và các
toán biệt kích ra Bắc.
Sau này,
trong cuốn sách "Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội
VNCH" của dịch giả Vũ Đình Hiếu cũng viết rằng để chuẩn bị cho việc đưa
Phạm Chuyên xâm nhập miền Bắc, trong khi Chuyên được huấn luyện các kỹ
năng thì trung úy Tiên và Edward Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa
điệp viên xâm nhập miền Bắc.
"CIA cho
rằng việc phái Chuyên xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là rất hợp lý.
Với niềm hứng khởi ấy, hai chuyên viên tình báo bay ra Đà Nẵng tìm địa
điểm xuất phát. Họ thuê một biệt thự kín đáo, có tường bao quanh làm mật
cứ. Mọi động thái cũng như đường đi, nước bước của họ từ đó về sau có
mật hiệu là Pacific.
Sau điệp viên Ares, nhiều toán biệt kích bị bắt ngay sau khi đặt chân xuống miền Bắc. |
Trước khi
Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định triển khai kế hoạch ngắn hạn:
thả điệp viên đến khu phi quân sự, dọc theo Vĩ tuyến 17 để thăm dò. Nhân
vật được tuyển chọn cho kế hoạch này là một người theo đạo Công giáo,
quê ở Hà Tĩnh, tên là Vũ Công Hồng. Anh ta được huấn luyện cấp tốc và
đưa ra sống ở Huế trong một căn nhà được bảo vệ rất nghiêm mật. Vũ Công
Hồng (mang mật danh là Hirondelle) đã sẵn sàng lên đường. Thiếu tá Trần
Khắc Kính nhân vật thứ hai của Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống chỉ đạo mọi
hoạt động xuất phát từ Huế, với mật danh là Atlantic (…). Vài tuần sau,
Hồng trở về căn cứ an toàn. Mặc dù Hồng chỉ cung cấp một ít thông tin
về đường đi, nước bước của hệ thống an ninh Bắc Việt, nhưng cũng đủ làm
cho những nhân viên của Phòng 45 hứng khởi. Sau chuyến đi của Hồng hai
tháng, Chuyên đã sẵn sàng lên đường, với hành trang là kiến thức của một
năm được huấn luyện.
Đầu tháng
4/1961, Chuyên lên tàu Nautilus 1, rời Đà Nẵng, theo hành trình 2 ngày
về phía Bắc. Không may cho Chuyên do gặp phải thời tiết xấu, chiếc
Nautilus 1 đành quay trở về nơi xuất phát. Vài hôm sau thời tiết đẹp trở
lại, Chuyên tiếp tục lên đường. Cả Tiên và Reagan đều ra bến tàu tiễn
đưa Chuyên. Sau này Tiên nhớ lại là khi chia tay với Chuyên, anh ta đã
chúc Chuyên may mắn nhưng Chuyên không nói nửa lời".
4. Sau một
ngày trốn trong trong rừng sú, đêm 8/4, sau khi chôn giấu máy truyền
tin, Chuyên lẩn về nằm ở trong vườn nhà mình nhưng không dám vào nhà vì
sợ em dâu, là vợ Phạm Ốc, và vợ con mình biết sẽ bị lộ. Sáng hôm sau,
khi thấy Ốc đi làm, Chuyên mới gọi Ốc. Tối hôm đó, Chuyên gặp mẹ và hai
em trai là Ốc và Đắc. Sau mấy ngày trốn trong nhà, khi nghe thông tin có
người đến nhà ông Ngột lấy hai mái chèo ở chiếc thuyền lạ ngoài bãi
biển, Chuyên mang máy truyền tin cùng tư trang lên rừng trốn.
Dù phải
sống trong cảnh trốn chui trốn lủi, nhưng Chuyên cũng 3 lần lấy máy ra
liên lạc về trung tâm. Nhưng vì chậm so với giờ lên máy đã quy ước với
trung tâm nên đều không được. Chuyên viết thư và bưu thiếp sau đó để Ốc
chép lại có nội dung mật báo gửi vào 3 địa chỉ đã quy ước từ trước với
Phan.
Cho tới
ngày 27/4, lần thứ 4 lên máy, Chuyên mới liên lạc được với trung tâm,
báo cáo đã về tới nơi nhưng căn cứ bị động nên còn ở La Khê. Hai ngày
sau, Chuyên lại liên lạc với trung tâm. Sau đó, cách vài ngày, Chuyên
lại lên máy liên lạc với trung tâm. Cùng với báo cáo tình hình vào Nam,
Chuyên bắt tay vào tuyển người, ngoài 2 em ruột, một em họ, Chuyên chú ý
tới những người bạn và một số cán bộ cùng công tác trước kia có tư
tưởng bất mãn; Chuyên dự định tổ chức cơ sở vùng ghềnh Si, lập ban đón
tiếp, chuẩn bị nhận tiếp tế chuyến đầu tiên vào cuối tháng 5.
Với các
ngư dân, Chuyên có ý định dùng gạo để mua chuộc và tổ chức họ. Khi trung
tâm chuyển tiền ra sẽ tổ chức thuyền đánh cá để có thể nhận tiếp tế từ
ngoài xa ở Hạ Long hay Cát Bà, để tàu tiếp tế không phải vào quá sâu, sẽ
nguy hiểm; lựa chọn người để cuối tháng 10-1961 sẽ gửi vào Nam học vô
tuyến điện, sau đó ra làm nhiệm vụ liên lạc điện đài để Chuyên tập trung
vào việc tổ chức, gây dựng lực lượng…
Tất cả
những dự định ấy mới chỉ được vạch ra thì sau 7 phiên liên lạc bằng điện
đài, tối ngày 6/6/1961 Đắc bị bắt khi đang trên đường mang điện đài và
lương thực lên rừng tiếp tế cho Chuyên.
Biết em bị
bắt trước sau gì cũng sẽ khai ra việc mình vượt tuyến xâm nhập về Bắc,
Chuyên quyết định đánh lạc hướng bằng cách một mặt viết thư xin đầu thú
rồi cho em ra bưu điện gửi tới Công an huyện Yên Hưng nhưng trong lúc ấy
cũng lên kế hoạch liên lạc với Trung tâm cho rút bằng đường biển. Tuy
nhiên, kế hoạch này chưa kịp thực hiện thì chỉ vài ngày sau khi em bị
bắt, Chuyên cũng bị bắt khi đang trốn trong bồ thóc trong buồng cùng với
súng ngắn, lựu đạn, tiền và tài liệu; sau đó Chuyên phải khai nơi giấu
bộ máy điện đài thứ hai cùng tất cả tài liệu trong hang trên núi Đá
Chồng.
Sau gần 2
tháng đấu tranh, Phạm Chuyên đã bị khuất phục và khai hết kế hoạch mà
CIA giao cho khi xâm nhập ra Bắc. Sau khi đánh giá lại toàn bộ quá trình
bắt, đấu tranh với Phạm Chuyên, Cục Bảo vệ Chính trị và Sở Công an Hồng
Quảng khẳng định tất cả vẫn đảm bảo bí mật, một kế hoạch táo bạo được
gửi lên Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, đó là cho lập Chuyên án BK63 đấu tranh
với CIA với mục đích: duy trì chuyên án hoạt động lâu dài nhằm khống
chế được hoạt động của địch đối với địa bàn khu vực Đông Bắc; phát hiện
toàn bộ âm mưu và thủ đoạn hoạt động gián điệp biệt kích đối với miền
Bắc, tạo điều kiện để chủ động tấn công lại địch. Tổ chức câu nhử, đón
bắt những nhóm gián điệp khác nhằm khai thác triệt để các trung tâm gián
điệp biệt kích của địch; tính toán khả năng phái khiển người vào tổ
chức của địch khi cần thiết.
Bộ trưởng
Trần Quốc Hoàn đã chỉ đạo trong quá trình đấu tranh phải đảm bảo nguyên
tắc "tích cực bảo vệ mình, chủ động tiêu diệt địch" để vận dụng vào việc
bố trí các tin tức, tình huống giả tạo với phương châm "không để thiệt
hại cho ta, chỉ được lợi cho ta".
Những cán bộ tham gia chuyên án cũng không thể nghĩ từ đây, một cuộc chiến âm thầm đã diễn ra tới 10 năm sau mới kết thúc…
KÌ 3: 10 năm “dắt mũi” CIA
1.
Năm nay đã gần 90 tuổi nhưng Thiếu tướng Lê Mai, nguyên Giám đốc Công
an tỉnh Quảng Ninh, một trong những cán bộ đã trực tiếp chỉ đạo Chuyên
án BK63 từ những ngày đầu, vẫn còn minh mẫn. Nhắc lại chuyện xưa, Thiếu
tướng Lê Mai bảo rằng đó là những ngày không thể nào quên.
Sau
gần hai tháng bị bắt, trực tiếp thấy công an đối xử với mình và người
thân trong gia đình, đặc biệt là với bà mẹ già, rất chu đáo, Phạm Chuyên
đồng ý lập công chuộc tội, tham gia chuyên án.
Sáng
8/8/1961, sau gần 2 tháng mất liên lạc, “Tổng bộ” tại Sài Gòn nhận được
điện từ đài Ares. Ares báo cáo tình hình tạm ổn, có thể liên lạc lại
được, nhưng để đảm bảo an toàn thì khoảng cách giữa hai phiên phải thưa
hơn, không như lịch truyền tin được.
Các
sĩ quan tình báo tại Trung tâm dù đều là những người được CIA đào tạo
bài bản, nhất là các phương pháp thẩm tra trên điện đài, sau khi kiểm
tra đã chúc mừng Ares thoát hiểm và nhắc nhở chú ý đảm bảo an ninh.
Trong
khi đó, cách trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn hơn 2.000km, ở một bãi hoang
thuộc xã Trạp Khê (huyện Yên Hưng), Phạm Chuyên ngồi gõ manip truyền
tin, bên cạnh là các cán bộ Cục Bảo vệ Chính trị và Công an Hồng Quảng.
Kết thúc phiên liên lạc, tất cả mọi người mới thở phào vì mọi việc diễn
ra đúng kế hoạch.
Để
chuẩn bị cho phiên liên lạc này, nhiều ngày trước đó, các cán bộ tham
gia Chuyên án BK63 đã phải bàn bạc, đưa ra nhiều tình huống để có phương
án xử lý.
Theo
lời khai của Phạm Chuyên, trước khi kết thúc khóa huấn luyện về điện
đài, tên Tý, người hướng dẫn Chuyên về điện đài đã mang máy ghi âm đến
để ghi tín hiệu với mục đích cho central gián điệp nghe quen, đề phòng
trường hợp khi Chuyên ra Bắc bị bắt, Công an Bắc Việt lấy được thiết bị
và các quy ước liên lạc sẽ đánh tráo manip.
Không
những thế, Tý còn huấn luyện Chuyên biết cách hội thoại trong lề lối
thông báo giúp cho nhân viên báo vụ ở Trung tâm khi nhận điện nghe sẽ
biết ngay điệp viên đang bị khống chế, bằng cách đài chính bắt nhắc lại
một nhóm nào đó trong lúc đài đối đang chuyển điện, nếu có an ninh: nhắc
lại tự do không theo quy luật nào.
Ngoài
các biện pháp kỹ thuật là thêm những ký tự đã quy ước sẵn khi gõ manip
để báo cho Tổng đài biết đang bị khống chế, trong quá trình hỏi đáp,
tổng đài sẽ có những câu hỏi để thẩm tra xem đang trao đổi với điệp viên
hay một đối tượng giả, hoặc điệp viên đang bị khống chế.
Tổng
đài hỏi “Địa điểm tiếp tế bằng phi cơ ở đâu?”, nếu đang bị khống chế,
điệp viên trả lời “Cát Bà” hoặc một điểm vu vơ nào đó; nếu không bị
khống chế, trả lời “Chưa tìm được”…
Tuy
nhiên, việc đứt liên lạc suốt gần 2 tháng vẫn khiến “Tổng bộ” nghi ngờ,
vì vậy việc thẩm tra vẫn được thực hiện ở phiên liên lạc sau khi trong
bức điện thứ 2 đã hỏi tình trạng máy truyền tin, nơi cất giấu.
Các
trinh sát quyết định sáng tác bản tin cho Ares báo cáo về hai nơi chôn
cất máy, có tọa độ, mốc đánh dấu bằng các cây rừng có gai góc, kèm theo
việc này là một số tin tức hoạt động quân sự, kinh tế được lấy… trên
báo.
Một bản tin do trinh sát sáng tác cho Ares. |
Cho
tới tháng 10/1961, sau vài lần thẩm tra nữa, “Tổng bộ” mới tin Ares thực
sự vẫn đang hoạt động hiệu quả khi lần liên lạc nào, Ares cũng cung cấp
rất nhiều tin về các hoạt động kinh tế rất chuẩn xác vì được trinh sát
“copy” từ các báo. Với lý do cần có kinh phí và phương tiện để hoạt
động, Ares đề nghị được tiếp tế sớm.
“Tổng
bộ” yêu cầu Ares tìm địa điểm đón hàng rồi báo cáo cùng quy ước an ninh
và ám hiệu nhận hàng. Sau khi tính toán, Ban chuyên án quyết định chọn
nơi nhận hàng là khu Đầu Đá, một điểm trong Vịnh Hạ Long.
Ngày
16/1/1962, tàu Nautilus 1, chính là tàu đưa Phạm Chuyên ra Bắc, cùng
với 10 thủy thủ từ Đà Nẵng mang theo 30 thùng đồ gồm máy truyền tin,
vàng, tiền miền Bắc (tiền thật) lương thực, thực phẩm, vũ khí ra tiếp tế
cho Chuyên. Sau khi toàn bộ hàng hóa đã tập kết lên bãi, toàn bộ thủy
thủ cùng hàng hóa bị bắt gọn.
Trong
khi đó, Ares thông báo không nhận được hàng, vì có thể đúng hôm chiếc
tàu chở hàng ra tiếp tế đã bị giông lốc đánh chìm và đề nghị tiếp tục
chuyển đồ tiếp tế ra. Cùng với đề nghị tiếp tế, Ares vẫn đều đặn cung
cấp tin tức rất “giá trị” do các trinh sát tổng hợp hoặc sáng tác ra.
Hơn
một tháng sau chuyến hàng đầu tiên, Ares bất ngờ nhận được thông báo
Tổng bộ đã chuyển hàng ra và chỉ tọa độ cất giấu. Hàng hóa là 23 kiện
lương thực, thuốc và 7 thùng vũ khí. Cho tới tháng 8/1963, Tổng bộ đã 3
lần tiếp tế bằng đường biển cho Ares. Tuy nhiên, lần này khi tàu bốc
hàng trở ra thì bất ngờ bị công an vũ trang phát hiện truy đuổi, bắt
được.
Với
lý do việc tiếp tế bằng đường biển đã bị lộ, Ares đề nghị Tổng bộ tiếp
tế bằng đường không. Đề xuất này lập tức được chấp nhận vì “Tổng bộ”
cũng cho rằng tiếp tế bằng đường không sẽ được nhiều và nhanh hơn, lại
ít nguy hiểm.
Sau
khi đi tìm địa điểm, Ban chuyên án quyết định chọn địa điểm nhận hàng là
Khe Ru (huyện Hoành Bồ), đây là một bãi cỏ trên đỉnh núi, xa dân, hướng
bay từ đông bắc sang rồi thẳng ra biển, máy bay thả dù rất an toàn. Tín
hiệu quy ước địa điểm nhận hàng là 3 cột khói hình tam giác ở giữa bãi.
Nhận
được thông báo của Ares về địa điểm, “Tổng bộ” đồng ý ngay và thông
báo chuẩn bị nhận hàng. Trước ngày hẹn, một tổ công an vũ trang cùng tổ
công tác gồm 3 trinh sát và Phạm Chuyên dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
đồng chí Lê Mai, lúc đó là Phó giám đốc Công an tỉnh, lên bãi thả chuẩn
bị.
Đúng
ngày hẹn, từ sáng, giữa bãi thả, 3 đống cỏ khô được chất lên, trên cùng
phủ lá tươi để tạo khói. Đợi suốt một ngày mà không thấy máy bay đâu
khiến ai cũng thấy bồn chồn. Cho tới gần 17h mới nghe thấy tiếng máy
bay, lập tức 3 đống cỏ khô được châm lửa. Khi 3 cột khói bốc lên cũng là
lúc chiếc máy bay bay qua, thả xuống hai cái dù hàng.
Sau
lần tiếp tế này, với lý do mở rộng địa bàn hoạt động, Ares tiếp tục đề
nghị tiếp tế ngoài lương thực, thuốc men, tiền mặt cần có cả vũ khí,
thuốc nổ, máy ảnh, ống nhòm… tất cả những đề nghị này đều được đáp ứng.
Có
chuyến, “Tổng bộ” thả xuống 30 thùng hàng, ngoài lương thực, thực phẩm
còn trang bị cho Ares cả súng giảm thanh, máy ảnh, máy ghi âm và đặc
biệt cả một bộ máy truyền tin đời mới nhất chạy bằng ắc quy khô chứ
không cần quay ragono.
Cho
tới khi kết thúc chuyên án, “Tổng bộ” đã tiếp tế cho Ares tổng cộng 6
chuyến hàng, 3 chuyến đường biển, 3 chuyến đường không, ngoài lương
thực, thực phẩm, vũ khí còn có nhiều phương tiện, máy móc phục vụ hoạt
động gián điệp, tiền, vàng, có chuyến thả tới 150 ngàn đồng tiền miền
Bắc, một số tiền có giá trị rất lớn.
Ares trong một phiên liên lạc với “Tổng bộ”. |
Nhưng
quan trọng hơn, tin tưởng Ares mà “Tổng bộ” đã cung cấp 5 đầu mối gián
điệp cài lại ở Hải Phòng, Quảng Ninh. Cũng từ Ares, hai toán biệt kích
khi được tung ra Bắc để “tăng cường lực lượng” đã bị bắt ngay khi chân
vừa chạm đất.
2. Giữa năm 1964, “Tổng bộ” thông báo Ares chuẩn bị đón thêm người. Đó là toán biệt kích mang tên Eagle.
Ngày
28/6/1964, 6 biệt kích trong toán Eagle nhảy dù xuống Bắc Giang với
nhiệm vụ phá hoại hai tuyến quốc lộ số 1, số 4 và phá hoại tuyến xe lửa
Mục Nam Quan; căn cứ không quân Mai Phả. Tuy nhiên, khi vừa tiếp đất cả
bọn đã phải tra tay vào còng số 8. Điều đáng nói là tất cả tin tức và
hoạt động vẫn được toán Eagle báo cáo về đầy đủ khiến “Tổng bộ” rất hoan
hỉ.
Hơn
một năm sau, ngày 21/9/1967, toán Red Dragon (Rồng đỏ) gồm 7 biệt kích
được thả xuống Hà Giang với nhiệm vụ phá hoại các tuyến quốc lộ và cơ
sở kinh tế. Nhưng cũng như toán Eagle, vừa nhảy dù xuống, 7 “Rồng đỏ” đã
bị bắt khi chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra trong khi “Tổng bộ” vẫn nhận
được các bản báo cáo.
Sau
này, trong cuốn sách của dịch giả Vũ Đình Hiếu viết rằng: “Theo các dữ
liệu trong các bản báo cáo về tất cả những gì liên quan đến toán Red
Dragon, cho thấy có những bất đồng khá sâu sắc giữa hai trung tâm chỉ
huy lực lượng biệt kích Mỹ và Việt Nam.
Người
Mỹ tin là toán biệt kích đã nằm trong tay đối phương và bị khống chế,
buộc phải gửi đi những bản báo cáo sai sự thật về cho SOG. Các sĩ quan
quân đội Sài Gòn thì ngược lại, cho rằng toán biệt kích Red Dragon vẫn
còn hoạt động, vì toán vẫn tiếp tục liên lạc từ năm 1968, cho đến 1969
mới chấm dứt”.
3.
Thiếu tướng Lê Mai kể rằng để đảm bảo bí mật, suốt 10 năm thực hiện
chuyên án, tổ công tác gồm 3 trinh sát và Phạm Chuyên toàn sống trong
hang hoặc lán trại ở những khu rừng núi biệt lập. Ban đầu, tổ đóng ở Bãi
Cháy. Nhưng khi máy bay Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, nhất là Hải
Phòng, Quảng Ninh thì lại phải thay đổi.
Ngày
ấy, cơ quan cũng ít ôtô, trong khi mỗi lần liên lạc bằng điện đài lại
phải cần ôtô để chở máy. Vậy là tổ lại chuyển về Hà Lầm để đỡ phải đi
lại. Nhưng về Hà Lầm chưa được bao lâu thì khu vực này bị ném bom, vậy
là lại chuyển vào sống ở một hang núi ở Quang Hanh. Ở Quang Hanh, mỗi
lần liên lạc lại phải dùng xe ôtô chạy lên Uông Bí để thay đổi tọa độ
liên lạc.
Vừa
lo đảm bảo an toàn, nhưng cái khó nữa là phải sáng tác tin tức báo cáo
làm sao địch không phát hiện ra đang bị “ăn quả lừa”. Dù không theo định
kỳ cụ thể nhưng thông thường cứ 10 – 20 ngày phải có một bản tin để báo
cáo về “Tổng bộ”.
Suốt
10 năm, các trinh sát đã sáng tác tới gần 300 bản báo cáo, trong đó có
cả những tình huống giật gân, như bị truy đuổi, bị bắt hụt, điều kiện
hoạt động cực kỳ khó khăn…
Thiếu
tướng Lê Mai kể rằng quy trình sản xuất báo cáo là các trinh sát soạn
ra trình cho ông duyệt, sau đó ông lại trình về Bộ Công an để Cục trưởng
Nguyễn Tài duyệt lần cuối rồi chuyển lại cho Ares phát vào Nam.
Nội
dung tin về kinh tế thì tập hợp từ các báo và thực tế đời sống mà ai
cũng biết, nhưng tin tức về quốc phòng an ninh thì phải tính toán.
Có
lần “Tổng bộ” yêu cầu xác định tọa độ các cây cầu trên Quốc lộ 18 cần
đánh sập, sau khi thị sát, Ban chuyên án quyết định cung cấp tọa độ
những cây cầu đã hỏng để lập báo cáo. Sau khi địch ném bom, Ares lại có
báo cáo kết quả rất chính xác rằng cầu đã hư hỏng nặng. Vì vậy mà uy
tín của Ares ngày càng tăng. Về các công trình quốc phòng, rất nhiều báo
cáo về trận địa pháo được trinh sát “sáng tác” như thật cho Ares báo
cáo.
Tôi
đã đọc trong hồ sơ chuyên án những bản tin viết tay do đồng chí Nguyễn
Nhàn, trinh sát phòng Bảo vệ Chính trị Công an Hồng Quảng sáng tác vào
năm 1967. Như bản tin ngày 14/7/1967, tức là chuyên án đã thực hiện được
7 năm, Ares vẫn báo cáo: “Vùng Quảng Khê - La Khê, tọa độ 930 - 160, có
các cơ sở: Khấu, Đắc, Ốc, Hiển.
Các
mục tiêu vùng này: có trận địa tên lửa hoạt động thường xuyên ở quanh
vùng La Khê ở các tọa độ 89-17, 92-16, 92-18. Ở La Khê còn có một đơn vị
huấn luyện Hải quân (khoảng 1B) và 1 lớp đặc công, nghe nói lớp đặc
công thỉnh thoảng vào vùng Đà Nẵng đánh xong lại ra. Có các ụ pháo bảo
vệ bờ biển đặt trên các núi ở tọa độ 94-20, 94-17. Kho xăng ngầm ở
90-16…”.
4. Mấy chục năm sau, trong cuốn sách “Đội quân bí mật, cuộc chiến bí mật”, cựu sĩ quan tình báo Mỹ Sedgwick Tourison viết rằng:
"Điệp
viên ARES. Tôi biết anh ta quá đi chứ, tôi đã nghiên cứu hồ sơ của anh
ta, anh ta có nhiều tên nhưng tên thật là Phạm Chuyên. Chúng tôi tuyển
mộ để đánh anh ta quay trở lại Bắc Việt Nam năm 1961. Anh ta vẫn giữ
liên lạc với chúng tôi ít ra là cho đến năm 1969 và tôi không biết rõ là
anh ta hoạt động cho chúng tôi hay hoạt động cho Bắc Việt (…).
Trong
cuộc chiến tranh này, cán bộ phản gián của Bộ Công an Việt Nam đã đối
đầu với Cục Tình báo Trung ương Mỹ. Bấy giờ các toán gián điệp người
Việt Nam do CIA và Lầu Năm Góc tuyển mộ và cho nhảy dù xuống miền Bắc
Việt Nam để xây dựng các cơ sở kháng chiến, đằng sau các phòng tuyến của
địch.
Một
số nhân viên điện đài đã bị bắt chỉ vài giờ sau khi họ đặt chân xuống
mặt đất và đã bị lực lượng phản gián của Hà Nội khuất phục, mở điện đài
thông báo cho Sài Gòn và Washington những gì mà Hà Nội muốn cho họ
biết”.
Nhưng
đó là chuyện sau này, còn vào thời điểm ấy, những bản tin chi tiết từng
đơn vị, từng tọa độ của Ares đã khiến cho “Tổng bộ” tin tưởng tuyệt
đối. Vì vậy mà trong 10 năm, ghi nhận thành tích công tác của Ares,
“Tổng bộ” đã thưởng cho điệp viên này tới 12 huân chương, trong đó có
Huân chương “Anh dũng Bội tinh”.
Nguồn: ANTG/ Báo CAND
Subscribe to:
Posts (Atom)