(Ông
Tourison từng là nhân viên cao cấp phục vụ trong Cơ quan Tình báo Quốc
phòng Hoa Kỳ, đặc trách Tù binh Chiến tranh và Mất tích).
Trưa
hôm ấy ngày 25/1/67, anh em Toán Hadley 11 người, do Lê Ngung làm
Trưởng Toán, đã tổ chức bữa cơm thân mật để chia tay lần cuối tại khu
cấm Long Thành. Được gọi là khu cấm vì nơi đây chỉ giành riêng cho Toán
sắp lên đường công tác dài hạn, mọi việc liên lạc với bên ngoài đều bị
nghiêm cấm, nhằm bảo mật tối đa công tác mà Toán sắp đảm trách.
Sau
khi được các Trưởng Công Tác Việt-Mỹ thuyết trình chi tiết về nhiệm vụ
và vùng công tác Toán sẽ xâm nhập. Riêng 2 nhân viên Truyền tin Toán
còn được Sĩ quan Truyền Tin Trung Ương trực tiếp thuyết trình về lệnh
căn bản truyền tin, cũng như các nhóm an ninh mật mã của mỗi cá nhân
hiệu thính viên, mà chỉ mỗi người trong phạm vi họ được biết. Không một
ai khác, kể cả Trưởng Công Tác và Trưởng Toán, được biết đến nhóm mật
mã này. Cũng xin nói rõ, mỗi hiệu thính viên đều có cách đánh ma-níp cá
biệt, do đó nhịp điệu đánh ma-níp mỗi người đều được ghi âm và lưu giữ
trong hồ sơ mật, để đề phòng nếu địch nhảy vào hệ thống liên lạc hoặc có
gì nghi ngờ thì chuyên viên truyền tin của Trung Ương có thể phân biệt
được bạn hay thù. Một điện văn gởi từ Trung Ương đến Toán công tác hay
ngược lại, sau khi được mật mã sẽ chuyển qua đài trung gian tại Phi luật
Tân và từ đài này được chuyển tiếp qua từng đoạn trên nhiều tần số khác
nhau, phòng địch có bắt được tần số, thì cũng không thể nào thu được
toàn bộ văn bản.
Sau
khi được Trưởng Công Tác thuyết trình và được Toán bá cáo đáp hiệu, các
toán viên nhận đồ trang bị cá nhân đã được sắp sẵn cho mỗi người và
chính tay họ tự sắp xếp lại cho tiện dụng khi hữu sự. Sau đó Toán Hadley
được chở ra phi cơ C.130 đang chờ sẵn tại phi trường Long Thành để chở
thẳng đến phi trường Nakor-Phanum , phi trường Mỹ nằm trong nội địa Thái
Lan, cạnh biên giới Thái-Lào.
Vừa
đáp xuống sân bay, Đại úy Caristo và tôi đi ngay vào phòng hành quân.
Nơi đây đã có vài người Mỹ chờ đón chúng tôi. Sau khi dự thuyết trình và
trao đổi vài chi tiết về cuộc hành quân xâm nhập của Toán Hadley, chúng
tôi được xem một số không ảnh và slides phóng lớn mà phi công Mỹ vừa
chụp tại vùng bãi đáp (L.Z.), nơi Toán sẽ được trực thăng thả xuống sau
vài giờ nữa. Rời phòng hành quân, chúng tôi trở về cấp tốc với Toán đang
chờ tại phi trường C.130. Tôi báo ngay cho Toán biết lệnh hành quân
được giữ nguyên không có gì thay đổi và ân cần nhắc lại những điểm quan
trọng sau:
-
Toán sẽ được trực thăng vận đến bãi đáp tại tọa độ… cách mục tiêu 30 km.
Toán được trang bị rất nhẹ, chỉ mang theo 3 ngày lương khô.
-
Sau khi xuống đất, Toán sẽ di chuyển cấp tốc theo hướng 12 giờ để tiến
về bãi thả ở tọa độ X..nằm trên hướng Bắc là hướng di chuyển của Toán.
- Toán sẽ ẩn trú quanh đây để nhận tiếp tế thả dù, được ấn định lúc 1 giờ khuya đêm thứ 3, kể từ đêm xâm nhập.
-
Toán sẽ đánh dấu bãi thả 5 phút trước giờ qui định và làm dấu hiệu chữ T
theo hướng Đông-Tây Bắc- Nam với 5 ngọn đèn pin mỗi ngọn cách nhau 3
mét. Năm kiện hàng đã được đóng sẵn và chở đến Thái Lan cùng chuyến với
Toán. Trong trường hợp có gì thay đổi, Toán sẽ được thông báo bằng tín
hiệu qua đài phát thanh ‘Gươm Thiêng Ái Quốc’, là đài phát thanh bí mật
của Sở Tâm Lý Chiến thuộc Sở Kỹ Thuật nhằm vào công tác tuyên truyền
chống chính quyền Miền Bắc.
Khi
giờ G điểm, 2 chiếc trực thăng CH3 mở máy. Toán cùng với tôi và một hạ
sĩ quan P.D.O. bước lên trực thăng số 1 do chính Trung Tá Phi Đoàn
Trưởng là phi công chính. Chiếc số 2 do một Trung úy lái bay kèm theo
làm trừ bị. Cả hai chiếc tiến dần về hướng đông.
Mặc
dầu loại CH3 có trữ lượng xăng lớn, nhưng vì đường bay từ Nakor-Phanum
băng qua không phận Lào để tiến vào Miền Bắc là một không trình khá dài,
do đó hai trực thăng phải đáp xuống căn cứ bí mật của Tướng Vàng Pao để
tiếp thêm nhiên liệu. Rời căn cứ này, phi cơ trực chỉ mục tiêu. Trời đã
về chiều, tiếng động cơ pha lẫn tiếng cánh quạt chạm mạnh vào những cột
gió vô hình, gây nên cảm giác vừa thích thú vừa ghê rợn. Tôi liếc nhìn
quanh anh em Toán Hadley đang trầm tư im lặng…Họ là những thanh niên hào
hùng đầy nhiệt huyết, tuổi đời mới trên dưới 20. Họ đã không quản ngại
hy sinh tuổi thanh xuân với bao lạc thú, chấp nhận cuộc sống đầy mạo
hiểm với bao thử thách gian khổ. Tất cả vì Tổ Quốc thân yêu. Phải, họ là
những người hy sinh trong bóng tối, đáng được mọi người yêu mến cảm
phục.
Kìa những dẫy núi đá vôi bắt đầu lộ diện trong nền trời mây trắng bao quanh, báo hiệu bãi đáp gần kề.
Thật
vậy, tiếng chuông báo hiệu cùng lúc với tiếng Trung Tá trưởng phi cơ
báo trong máy cho tôi biết chỉ còn 5 phút nữa sẽ đến bãi đáp. Tôi ra
hiệu báo cho anh em sẵn sàng. Trực thăng sà dần xuống bãi đáp..ba
phút…hai phút…một phút. Nhanh như chớp không đầy 15 giây, tất cả Toán 11
người đã rời khỏi phi cơ. Họ đã biến mất trong các lùm cây rậm. Tôi
quay lưng , bám vào thanh sắt cửa phi cơ, cố quay đầu lại quan sát,
nhưng chẳng còn thấy một ai. Tôi ngoảnh mặt nhìn phía trước, một con
đường đất khá lớn hiện ra trước mặt tôi. Tôi tự hỏi tại sao có con đường
này ? Đường này Việt Cộng mới làm cấp tốc hay sao mà chưa thấy trên bản
đồ ? Không thể có chuyện đó được vì không ảnh và slides mới chụp cách
đây 3 hôm, không thấy có con đường này. Trong lúc tôi còn phân vân thì
trong tai tôi vang lên tiếng nói của Trung úy trưởng phi cơ 2 đang bay
trên đầu tôi nói vọng xuống báo động :”Ông đáp sai L.Z.! Ông đáp sai bãi đáp rồi ! “
Tôi nhìn lên Trung Tá Phi đoàn trưởng cùng lúc ông quay xuống nhìn tôi. Tôi gật đầu mấy cái tỏ dấu đồng ý với viên Trung úy. “Anh muốn tôi làm gì bây giờ?”. Ông hỏi, tôi đáp ngay “Xin quay lại đón Toán. Toán bị thả sai rồi ! Kế hoạch sẽ hỏng hết!”
Chiều
ý tôi, trực thăng quay lui, nhưng phải mất 10 phút sau mới đáp được
xuống khoảng trống cạnh con đường mòn. Tôi và Hạ sĩ quan P.O.D nhảy
xuống, chia nhau mỗi người một hướng vừa chạy vừa la to :”Ngung ơi! Ngung ơi! Trở lại trực thăng ngay!”. Chúng
tôi chạy như người mất hồn, vừa chạy vừa kêu mãi trong vòng 5 phút.
Nhưng buồn thay, chỉ có tiếng vọng từ rừng sâu đáp trả lại tiếng la hét
của chúng tôi thôi. Tôi càng lo âu hơn khi nhìn thấy xa xa vài con trâu
đang ăn cỏ và mấy hình nộm treo ở ruộng bắp hay đậu dân địa phương dùng
để đuổi muông thú. Chúng tôi đành trở lại trực thăng với thất vọng não
nề. Viên xạ thủ minigun tỏ vẻ hốt hoảng, kêu chúng tôi lên trực thăng
gấp khi anh ta trông thấy đàn trâu và dấu chân người in trên đường mòn
nơi trực thăng đang đậu. Trên đường về, tôi hết sức băn khoăn khi Toán
bị thả lầm vào một vùng không an ninh. Tôi vừa lo cho anh em vừa lo cho
kế hoạch Hành quân bị hỏng .
Biện
pháp cấp tốc mà chúng tôi phải thi hành là dùng điện thoại ‘hot line’
cho Sài gòn biết và xin Trung Ương dùng ám thoại báo ngay cho Toán. Ám
thoại đã được chuyển ngay cho Toán tối hôm ấy.
Riêng
phần chúng tôi, thay vì ở lại Thái Lan thêm ba ngày đợi tiếp tế xong
cho Toán, đã phải trở về Sài gòn ngay tối đó. Sáng hôm sau Đại úy
Caristo đã lo phương tiện cho tôi bay ra Đà nẵng, xin phi cơ bay đi tìm
Toán.
Chiều
26/1/67, Thiếu Tá Vượng Phi đoàn trưởng Phi đoàn AIE Skyraider đã chở
tôi thực hiện phi vụ đầu tiên tìm Toán. Tháp tùng chúng tôi còn có phi
cơ của Đại Tá Cố vấn phi đoàn. Rời căn cứ không quân Đà nẵng 2 phi cơ
bay thẳng ra biển, hình như họ cố tránh màn lưới radar địch và từ biển
khơi 2 phi cơ trực chỉ vào vùng thả Toán chiều hôm trước. Hai chiếc bay
lượn nhiều vòng trên không phận địch. Chúng tôi cố quan sát và luôn gọi
Toán qua máy điện đàm. Nhưng buồn thay, không một tiếng đáp trả và cũng
không một dấu hiệu nào được phát hiện của Toán, mặc dầu toán được trang
bị máy điện đàm và mỗi toán viên đều được cấp phát panneau và kính chiếu
để liên lạc với phi cơ, cùng súng bắn hỏa châu và khói hiệu…Tất cả đều
được hướng dẫn sử dụng các phương tiện liên lạc, nhưng không hiểu tại
sao Toán vẫn im lặng một cách khó hiểu…Không lẽ Toán không thấy phi cơ
chúng tôi hay chúng tôi đã bay sai địa điểm ?
Sau
khi bay lượn chừng 20 phút, 2 phi cơ đổi hướng bay về Nakor-Phanom để
lấy nhiên liệu và nghỉ đêm, đợi sáng hôm sau lúc trời quang đãng, chúng
tôi lại bay trở lại vùng thả Toán và tìm kiếm mỗi ngày 2 phi vụ. Chúng
tôi bay liên tục 3 ngày rưỡi với 7 phi vụ, nhưng không tìm được dấu hiệu
nào của Toán.
Thiếu
tá Vượng, Đại úy Thành, Đại úy Hoan và Trung úy An là những phi công
tài ba rất gan lì nhiệt tâm. Họ bay rất thấp, xem thường súng phòng
không địch…Nhưng mọi cố gắng đều không đem lại kết quả .
Chúng
tôi trở về Sài gòn với nhiều nghi vấn. Đại úy Caristo đến gặp tôi với
bộ mặt không vui, báo cho tôi biết C.A.S. bí danh cơ quan tình báo Mỹ
hoạt động tại Lào, vừa báo cho MACV-SOG hay là Toán HADLEY đã bị bắt sau
2 ngày xâm nhập. Đó là tin đau đớn nhưng không làm tôi ngạc nhiên vì
chúng tôi cũng đã tiên liệu như vậy.
Đến
năm 68, sau cuộc tấn công tàn bạo của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân, nhiều
tù bình và hàng binh VC đã tiết lộ khá nhiều tin tức giá trị về các
Toán Biệt Kích hoạt động tại Miền Bắc. Qua đó chúng tôi được biết có
nhiều Toán đã bị thả sai tọa độ, trong số đó có Toán Red Dragon đã bị
thả xuống một trại lính Trung Cộng, Toán Europa bị thả nhầm xuống một
làng của dân, Toán Scorpion và một số Toán khác tôi không còn nhớ rõ tên
cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Hôm nay đến lượt Toán Hadley!
Lần
này chúng tôi vẫn nghĩ rằng anh em các Toán ấy không được may mắn gặp
phải những chuyến bay do phi công dở ẹt lái nên đã thả sai tọa độ.
Nhưng mới đây khi đọc bài ‘Nước mắt không còn’ của
ông Tourison, một chuyên viên thượng thặng của ngành tình báo Hoa Kỳ,
được đăng trên báo Con Cò ở California, tôi mới bật ngửa. Đây là một cố
tình thả sai các Toán của cơ quan Tình Báo Hoa Kỳ, để loại bỏ những
người đã được huấn luyện, nhưng không còn cần sử dụng nữa. Nếu trả họ về
quân đội hay đời sống dân sự VNCH, các bí mật tình báo có thể bị tiết
lộ, nên đã quyết định một giải pháp là thả xuống Miền Bắc cho Việt Cộng
bắt, chứ không phải do phi công thả sai tọa độ.
Chúng
tôi viết loạt bài này để ghi lại những nỗi đau thương mà anh em Biệt
Kích phải chịu trong suốt thời gian bị giam giữ trên dưới 20 năm trong
lao tù Cộng Sản, đã bị Hoa Kỳ cố tình bỏ quên.
Ông
Tourison đã vạch trần một sự thật phũ phàng : Chính các giới chức trong
cơ quan MACV-SOG, cơ quan đối nhiệm Sở Kỹ Thuật, là ‘tác giả’ của giải
pháp đưa một số anh em Biệt Kích vào miệng cọp. Đây là một giải pháp quá
bất nhân đến nỗi ông Tourison phải thốt lên rằng ông không còn nước mắt
để mà khóc.
Mới
đây, tôi có nói chuyện với ông Tourison qua điện thoại. Tôi đã hỏi ông
về những chuyến bay thả lầm Tọa độ, thì ông cải chính và nói : “Không phải thả lầm, mà là có dụng ý!”.Tôi
chỉ còn biết kêu lên xót xa uất hận cho các anh em Biệt Kích vì muốn
phụng sự Tổ Quốc, đã bị tình báo Hoa Kỳ dùng làm vật hy sinh.
Đau buồn thay Những Chuyến Bay Định Mệnh ,
những chuyến bay phũ phàng, những chuyến bay khổ công xếp đặt với nhiều
kỳ vọng…đã đưa bao thanh niên Việt Nam vào chỗ chết. Tôi không biết
chính phủ Hoa Kỳ nghĩ thế nào khi hành động tội ác trên, đã do chính các
nhân viên tình báo của họ , vì sự cắn rứt của lương tâm đã phơi bày ra
ánh sáng ?
Bài viết không có tên tác giả sưu tầm trên net